bài giảng - ttds [PDF]

  • 0 0 0
  • Gefällt Ihnen dieses papier und der download? Sie können Ihre eigene PDF-Datei in wenigen Minuten kostenlos online veröffentlichen! Anmelden
Datei wird geladen, bitte warten...
Zitiervorschau

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM  Mục tiêu Thông qua việc nghiên cứu nội dung bài học, giúp cho sinh viên nắm vững những kiến thức lý luận về Luật tố tụng dân sự, nhớ và phân tích được những kiến thức về khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh, nguồn của luật tố tụng dân sự; các quan hệ pháp luật và nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự. Trên cơ sở đó, sinh viên có thể nắm bắt được các vấn đề cơ bản của bài học cũng như có thể phân biệt được ngành Luật tố tụng dân sự với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.  Nội dung giảng dạy -

Khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự Việt Nam

-

Nhiệm vụ và nguồn của Luật tố tụng dân sự Việt Nam

-

Quan hệ pháp luật của Luật tố tụng dân sự

-

Các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự Việt Nam 

Phương pháp giảng dạy

Đây là bài học đầu tiên giới thiệu về môn học nên để dễ tiếp cận vấn đề cho sinh viên giảng viên sẽ sử dụng phương pháp đặt vấn đề thông qua tình huống mô phỏng, phát vấn, tương tác giữa sinh viên và giảng viên. Qua đó kết hợp với phương pháp thuyết giảng để lồng ghép những kiến thức cơ bản và thực tiễn vào bài học để sinh viên hiểu rõ. 

Tài liệu học tập

-

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

-

Bộ luật dân sự năm 2015

-

Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2014.

-

Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014. -

1.1.

KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm Luật tố tụng dân sự Việt Nam Khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể luôn mong muốn đạt được những lợi ích nhất định cho mình, nhưng đôi khi các lợi ích này lại xung đột, mâu thuẫn giữa các chủ thể với nhau, và do vậy cần phải có một cơ quan để giải quyết những xung đột này. Việc giải quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thông qua những thủ tục, trình tự pháp lý chặt chẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể gọi là thủ tục tố tụng dân sự mà thẩm quyền áp dụng là Tòa án nhân dân. Trong khoa học pháp lí, trình tự do pháp luật quy định cho việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự được gọi là tố tụng dân sự. Tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự tạo thành ngành luật được gọi là Luật tố tụng dân sự. Tóm lại, Luật tố tụng dân sự Việt Nam là một ngành Luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự để đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhanh chóng, đúng đắn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà nước1 Khái niệm vụ việc dân sự được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS) 2004. Sau đó khái niệm này tiếp tục được thừa kế trong Điều 1 BLTTDS 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự đã đưa ra sự phân biệt khá rõ giữa hai khái niệm: vụ án dân sự và việc dân sự . Theo đó: - Vụ án dân sự là những vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,lao động. Ví dụ: vụ án tranh chấp về quyền thừa kế, quyền sử dụng dất, hợp đồng mua bán hàng hóa - Việc dân sự là những yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Ví dụ: yêu cầu tuyên bố một người mất tích, yêu cầu thuận tình ly hôn… Điểm khác biệt giữa vụ án dân sự và việc dân sự là có hay không có yếu tố trang chấp. Nói tóm lại, vụ việc dân sự là một cụm từ được dùng để chỉ chung những vấn đề phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, được Tòa án thụ lý giải quyết. 1.1.2. Đối tượng điều chỉnh Luật tố tụng dân sự Việt Nam Đối tượng điều chỉnh chính của Luật tố tụng dân sự Việt Nam là các quan hệ phát sinh giữa Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan Thi hành án dân sự, đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình giải quyết và thi hành án dân sự. 1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội, 2017, trang 12

Các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự Việt Nam bao gồm nhiều loại: - Các quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án dân sự với đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản và người liên quan; - Các quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát với nhau; - Các quan hệ giữa các đương sự với những người tham gia tố tụng khác có liên quan. 1.1.3. Phương pháp điều chỉnh Luật tố tụng dân sự Việt Nam Điểm tạo nên sự khác biệt giữa ngành Luật tố tụng dân sự với các ngành luật khác không chỉ nằm ở đối tượng điều chỉnh mà còn ở cả phương pháp điều chỉnh của nó. Phương pháp điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự là tổng hợp những cách thức mà Luật tố tụng dân sự tác động lên các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của nó 2. Luật tố tụng dân sự tác động tới đối tượng điều chỉnh bằng hai phương pháp điều chỉnh chủ yếu: - Thứ nhất, phương pháp mệnh lệnh thể hiện ở chỗ địa vị của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án dân sự và các chủ thể khác trong tố tụng không giống nhau, trong đó các chủ thể khác đều phải phục tùng quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan Thi hành án dân sự. Nói cách khác, các quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án dân sự có giá trị bắt buộc các chủ thể tố tụng khác phải thực hiện, và nếu không tự nguyện thực hiện sẽ bị cưỡng chế thực hiện. - Thứ hai, phương pháp tự định đoạt, do các vụ việc dân sự phát sinh từ các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình nên các chủ thể của các quan hệ này có quyền tự quyết định quyền lợi của mình khi tham gia vào các quan hệ đó dưới các hình thức khác nhau như: tự quyết định việc khởi kiện; yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc; tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án; có thể tự hòa giải, thỏa thuận với nhau để giải quyết những vấn đề tranh chấp, rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện;… 1.2.

NHIỆM VỤ VÀ NGUỒN CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.2.1. Nhiệm vụ của Luật tố tụng dân sự Việt Nam Là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, với chức năng là điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự, Luật tố tụng dân sự Việt Nam có nhiệm vụ bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Hiện tại nhiệm vụ của Luật tố tụng dân sự Việt Nam được quy định ngay trong văn bản pháp 2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội, 2017, trang 13

luật tố tụng dân sự, cụ thể tại Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam (BLTTDS) năm 2015. Theo quy định này thì Luật tố tụng dân sự Việt Nam có những nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Thứ nhất, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hành chính, cải cách tư pháp. - Thứ hai, quy định quy trình tố tụng dân sự khoa học làm cho các hoạt động giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự và tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể tố tụng có nhiều thuận lợi. - Thứ ba, bảo đảm cho tòa án xử lý được nghiêm minh các hành vi trái pháp luật; bảo đảm việc thi hành được các bản án, quyết định dân sự của tòa án. Qua đó giáo dục được mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. 1.2.2. Nguồn gốc của Luật tố tụng dân sự Nguồn của Luật tố tụng dân sự Việt Nam bao gồm các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành có chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án dân sự, người tham gia tố tụng và người liên quan phát sinh trong tố tụng dân sự. Các văn bản pháp luật là nguồn của Luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay bao gồm nhiều loại như: - Hiến pháp, là đạo luật cơ bản của Nhà nước, là một nguồn quan trọng của Luật tố tụng dân sự. - Bộ luật Tố tụng dân sự, là nguồn chủ yếu và quan trọng nhất của Luật tố tụng dân sự. - Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân chủ yếu quy định về tổ chức và nguyên tắc hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát. - Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án (PLAPLPTA) quy định về các loại án phí, lệ phí, nguyên tắc thu nộp án phí, lệ phí… - Các văn bản pháp luật khác như Bộ luật dân sự (BLDS), Bộ luật Lao động (BLLĐ), Luật hôn nhân và gia đình (LHN&GĐ), Luật thương mại (LTM), Luật trọng tài thương mại (LTTTM)…Tuy không phải là các văn bản tố tụng dân sự nhưng vẫn có những quy định về tố tụng dân sự. Ngoài ra còn có các Nghị quyết, Thông tư…. Cũng là một trong các nguồn của Luật tố tụng dân sự Việt Nam. 1.3.

QUAN HỆ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự 1.3.1.1. Khái niệm quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

Quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là một dạng cụ thể của quan hệ pháp luật. Tuy vậy tính đa dạng và phong phú của các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự đã dẫn đến dự đa dạng và phong phú của các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Các quan hệ này phát sinh trong tố tụng dân sự - từ khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện đến khi thi hành xong bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là những quan hệ giữa Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án dân sự, đương sự và những chủ thể liên quan khác phát sinh trong quá trình giải quyết, thi hành án dân sự và được các quy phạm pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh. 1.3.1.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự Ngoài những đặc điểm chung của một quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật tố tụng dân sự còn có những đặc điểm riêng sau đây: - Tòa án thường là một bên của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án là chủ thể đặc biệt duy nhất được thực hiện quyền lực của Nhà nước để giải quyết vụ việc dân sự, có quyền ra các quyết định buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải thi hành. - Các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự phát sinh trong tố tụng và do Luật tố tụng dân sự điều chỉnh. Những quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng nhưng phải được Luật tố tụng dân sự điều chỉnh mới là quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. - Các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự phát sinh, tồn tại trong một thể thống nhất. Ví dụ: Nguyên đơn khởi kiện thì Tòa án phải xem xét việc thụ lý vụ án. Khi giải quyết vụ án, Tòa án có quyền triệu tập những người tham gia tố tụng đến tham gia tố tụng… Chính điều này đã làm cho các quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng dân sự gắn kết lại với nhau, tồn tại cùng nhau. 1.3.2. Thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự a. Chủ thể của quan hệ pháp luât tố tụng dân sự Chủ thể của quan hệ pháp luật nói chung là những con người cụ thể và những tổ chức có thể tham gia vào quan hệ pháp luật để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí nhất định. Căn cứ vào mục đích tham gia tố tụng và địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có thể phân các chủ thể thành 3 nhóm: - Nhóm thứ nhất gồm các chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết vụ việc dân sự, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân

- Nhóm thứ hai bao gồm các chủ thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác như đương sự người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. - Nhóm thứ ba gồm các chủ thể tham gia tố tụng để hỗ trợ Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá… và người liên quan. b. Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự Theo lý luận Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật thì khách thể của quan hệ pháp luật là những gì các bên chủ thể mong muốn đạt được3. Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có đầy đủ những đặc điểm của khách thể quan hệ pháp luật nói chung là cái mà các chủ thể mong muốn đạt được, là động lực thúc đẩy các chủ thể tham gia quan hệ. Tuy vậy khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có điểm khác với khách thể của nhiều quan hệ pháp luật khác ở chỗ lợi ích về vật chất không hoàn toàn chi phối việc tham gia quan hệ của tất cả các chủ thể, mà đôi khi các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự xuất phát từ nghĩa vụ do pháp luật quy định. Tóm lại, khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là việc giải quyết quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp giữa các đương sự hay việc giải quyết quan hệ pháp luật nội dung có chứa đựng những sự kiện pháp lý mà tòa án có nhiệm vụ xác định. Nói một cách khác: khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là tranh chấp, những việc phát sinh từ quan hệ pháp luật về nội dung mà Tòa án nhân dân, những người tham gia tố tụng và các chủ thế khác đều nhằm để giải quyết. c. Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự Nội dung của quan hệ phản ánh địa vị pháp lý của các chủ thể. Xét dưới góc độ cụ thể thì nội qung của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự gồm quyền và nghĩa vụ của của các chủ thể tham gia quan hệ luật tố tụng dân sự - Quyền tố tụng dân sự là cách xử sự mà pháp luật tố tụng dân sự quy định cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện. - Nghĩa vụ tố tụng dân sự là cách xử sự bắt buộc mà pháp luật tố tụng dân sự quy định cho các chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. 1.4.

CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.4.1. Khái niệm các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt Nam Theo nghĩa chung, nguyên tắc được hiểu là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”4. Hoạt động tố tụng dân sự là một dạng của hoạt 3 Xem Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2003, tr.456. 4 Xem: Viện ngôn ngữ học, Từ điểntiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2003, tr. 694.

động thực tiễn, có tính khoa học, do vậy cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt Nam là những tư tưởng pháp lí chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng4. 1.4.2. Nội dung các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự Việt Nam a. Các nguyên tắc thể hiện tính tuân thủ pháp luật của hoạt động tố tụng dân sự - Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự (Điều 3 BLTTDS 2015) Nguyên tắc này yêu cầu mọi hoạt động tố tụng dân sự của chủ thể tiến hành tố tụng dân sự, chủ thể tham gia tố tụng, của các các nhân, tổ chức ác nhân, tổ chức khác có liên quan phải tuân theo quy định của pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự nói riêng. Để thực hiện được nguyên tắc này thì mọi hành vi vi phạm pháp luật tố tụng dân sự đều phải được xử lý theo đúng quy định của pháp luật. - Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án (Điều 19 BLTTDS 2015) Bảo đảm hiệu lực của Tòa án là làm cho những phán quyết của Tòa án được thi hành trên thực tế. Nguyên tắc này đòi hỏi phải thực hiện những biện pháp cần thiết để thi hành được bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên. Người có nghĩa vụ chấp hành án phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án; nếu không tự nguyện thi hành thì phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế buộc họ phải thi hành - Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự (Điều 21 BLTTDS 2015) Theo đó, Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được kịp thời, đúng pháp luật. Trong các phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, phải có sự tham gia của Viện kiểm sát. b. Các nguyên tắc về tổ chức hoạt động xét xử của tòa án - Nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự (Điều 11 BLTTDS 2015) Theo đó, Hội thẩm nhân dân cùng Thẩm phán quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án liên quan đến nội dung lẫn thủ tục tố tụng dân sự và khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. Do Hội thẩm nhân dân đại diện cho nhân dân nên có thể thấy rằng nguyên tắc này đề cao vai trò của người dân trong việc tham gia vào công tác xét xử, phản ánh tiếng nói của người dân 4 Xem Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội, 2017, trang 36

đối với vụ việc dân sự đó, bảo đảm thực hiện dân chủ trong tố tụng dân sự và tạo điều kiện cho tòa án giải quyết đúng vụ án dân sự. - Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán giải quyết các việc dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 12 BLTTDS 2015). Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tự mình quyết định việc giải quyết vụ án dân sự không phụ thuộc vào ai, không bị chi phối bởi ý kiến của nhau và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Nguyên tắc này cũng ràng buộc các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác không được phép can thiệp vào hoặc động xét xử của Tòa án dưới bất kì hình thức nào. - Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể (Điều 14 BLTTDS 2015) Nội dung của nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể xác định Tòa án xét xử các vụ án dân sự bởi một tập thể - hội đồng xét xử, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; hội đồng xét xử quyết định giải quyết vụ án dân sự theo đa số. - Nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng và công khai (Điều 15 BLTTDS 2015) Nội dung của nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng và công khai xác định trách nhiệm của Tòa án phải tổ chức các phiên tòa kịp thời và công khai để xét xử các vụ án dân sự, trừ trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định mới được xử kín vụ án; mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa và kết quả xét xử của Tòa án được công bố công khai. - Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (Điều 17 BLTTDS 2015) Nguyên tắc này trước đây đã được quy định tại Luật TCTAND năm 1960 (Điều 9) và Sắc luật của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định về tổ chức Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân (Điều 8) nhưng từ khi Luật TCTAND năm 1980 được ban hành thì không còn quy định nữa. Đến năm 2002 thì Luật TCTAND mới quy định lại tại Điều 17 BLTTDS và sau đó được quy định lại tại Điều 17 BLTTDS năm 2004 với tên gọi là thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Đến BLTTDS năm 2015 thì nguyên tắc này được gọi là bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

Hình 1.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo cấp Nội dung của nguyên tắc này xác định việc xét xử vụ án dân sự được thực hiện dưới hai cấp xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm. Ví dụ: Một vụ án dân sự sơ thẩm sau khi Tòa án đã tuyên án mà bản án, quyết định sơ thẩm đó không bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật. Nhưng nếu trong một khoản thời hạn nhất định bản án hay quyết định sơ thẩm đó lại bị kháng cáo, kháng nghị thì phải được xét xử phúc thẩm và bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành. Trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm thủ tục tố tụng hoặc có tình tiết mới làm thay đổi vụ án thì có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. - Nguyên tắc giám đốc việc xét xử (Điều 18 BLTTDS 2015) Nghĩa của từ "giám đốc" ở đây hiểu là giám sát và đôn đốc việc xét xử theo đúng quy định của pháp luật, đúng trình tự, thủ tục, nhanh chóng.... nhằm đảm bảo cho việc áp dụng luật được nghiêm chỉnh và thống nhất, kịp thời trấn chỉnh hoạt động xét xử ngay khi có sai phạm. Theo nguyên tắc này thì Tòa án cấp trên trực tiếp giám đốc xét xử đối với Tòa án cấp dưới.

- Nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự (Điều 20 BLTTDS 2015) Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự phải là tiếng Việt. Nếu đương sự không biết tiếng Việt họ được quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình để trình bày trước Tòa án và trong trường hợp đó phải có phiên dịch, nếu đương sự bị khuyết tật về nghe, nói, nhìn có quyền dùng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật và phải có người dịch lại. Ví dụ: Trong một phiên tòa, có một bị cáo là người dân tộc Ê đê tham gia với tư cách là bị đơn, nếu bị cáo không nói được tiếng Việt thì bị cáo được phép nói tiếng của dân tộc mình là tiếng Ê đê tại Tòa nhưng phải có người phiên dịch để dịch tiếng Ê đê từ lời khai và trình bày của bị cáo sang tiếng Việt cho Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên tòa được biết. c. Các nguyên tắc bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự - Nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp (Điều 4 BLTTDS 2015) Điểm mới trong nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng theo BLTTDS 2015 so với BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 là Tòa án không được quyền từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Để giúp Tòa án thưc thi tốt quyền này, BLTTDS 2015 đã quy định tại Điều 45. Theo đó nếu chưa có điều luật áp dụng, Tòa án có thể áp dụng tập quán để giải quyết theo đúng quy định tại Điều 5 BLDS 2015 và việc áp dụng này không trái với những nguyên tắc cơ bản quy định tại Điều 3 của BLTTDS 2015. Nếu không thể áp dụng tập quán thì tùy trường hợp Tòa án có thể áp dụng tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ án. Đây là lần đầu tiên và một cách chính thức, việc áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, án lệ và lữ công bằng được đề cập đến trong BLTTDS để lấp khoảng trống trong pháp luật, giúp cho các đương sự bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng của mình. - Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5 BLTTDS 2015) Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này thể hiện ở sự tự quyết định của đương sự trong hoạt động tố tụng dân sự, bao gồm:  Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự.

 Đương sự có quyền quyết định trong việc thực hiện các hành vi tố tụng sau khi Tòa án đã thụ lý vụ việc dân sự như thay đổi yêu cầu khởi kiện, phản tố, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập, đồng thời đương sự cũng có quyền thay đổi bổ sung hoặc rút yêu cầu.  Ngoài ra đương sự cũng có quyền quyết định việc kháng cáo hoặc không kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm, đồng thời có quyền thay đổi, bổ sung hay rút kháng cáo. - Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (Điều 6 BLTTDS 2015) Khi đưa ra yêu cầu hay bác bỏ yêu cầu của người khác, đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để làm rõ yêu cầu của mình hay bác bỏ yêu cầu của người khác. Đương sự có quyền và nghĩa vụ tự chủ động thu thập và giao nộp chứng cứ cho Tòa án và Tòa án có trách nhiệm trong việc hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ, xác minh chứng cứ trong trường hợp đương sự không thể tự mình tìm được. Ví dụ như lấy lời khai của người làm chứng, đối chất, xem xét thẩm định tại chỗ… - Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (Điều 8 BLTTDS 2015) Nguyên tắc này chỉ được đặt ra trong mối quan hệ giữa các đương sự với nhau. Bên này được đưa ra yêu cầu, chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì bên kia cũng phải được đưa ra yêu cầu, chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đây là tiền đề chủ yếu để thực hiện việc tranh tụng tại piên tòa. - Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự (Điều 25 BLTTDS 2015) Nguyên tắc này được quy định lần đầu tiên tại Điều 24 BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011). Theo đó các chủ thể có quyền khiếu nại, tố cáo về các hành vi hoăc việc làm trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong hoạt dộng tố tụng dân sự. Đây là cơ sở pháp lý để các chủ thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay người khác và góp phần làm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng và đúng đắn. d. Các nguyên tắc thể hiện trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng - Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư, khách quan trong tố tụng dân sự (Điều 16 BLTTDS 2015) Nuyên tắc này quy định những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng giúp Tòa án làm rõ các vấn đề của vụ việc dân sự không được tiến hành hoặc

tham gia tố tụng nếu có lý do chính đáng cho rằng họ có thể không vô tư, khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Ví dụ: bị đơn trong một vụ án dân sự là em họ của kiểm sát viên được phân kiểm sát hoạt động tố tụng trong cùng một vụ án. Hay trường hợp họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự… - Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 9 BLTTDS 2015 Nguyên tắc này bảo đảm cho đương sự tự thực hiện quyền tự bảo vệ của mình trước Tòa án hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Kể cả những trường hợp đặc biệt như những người nghèo không đủ khả năng để chi trả cho những chi phí về luật sư, người có công với cách mạng… - Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự (Điều 10 BLTTDS 2015). Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này như sau: 

Tòa án có trách nhiệm tiến hành thủ tục hòa giải theo đúng quy

định của pháp luật để giúp các đương sự thỏa thuận với nhau về cách thức giải quyết vụ việc trừ những việc không được hòa giải và không tiến hành hòa giải được.  Tòa án tôn trọng và công nhận sự thỏa thuận tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội giữa các đương sự trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự - Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng dân sự (Điều 13 BLTTDS 2015) Nguyên tắc này xác định các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Tòa án xét xử công khai, Tòa án xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia và nhân dân có quyền khiếu nại, tố cáo đối với những việc làm sai trái của những người có thẩm quyền. - Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 24 BLTTDS2015) Theo Từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là kiện cáo lẫn nhau 5. Còn theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ “tranh luận” và “tố tụng”. Tóm lại tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ khi các đương sự thực hiện quyền khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, quá trình tranh tụng này

5 Xem: Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1991, trang 1238

sẽ bao gồm toàn bộ các giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm. Loại tố tụng này đã được áp dụng từ thời kỳ Hy lạp cổ đại. Ở Việt Nam, nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 23a BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 nhưng với tên gọi bảo đảm quyền tranh luận trong tố tụng dân sự. Sau đó phải đến khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 24 BLTTDS 2015 nguyên tắc này mới được quy định đầy đủ với tên gọi là bảo đảm tranh tụng trong xét xử. - Nguyên tắc trách nhiệm chuyển giao tài liệu, giấy tờ của Tòa án (Điều 22 BLTTDS 2015) Nguyên tắc này được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 22 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011. Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự và những người tham gia tố tụng khác. e. Các nguyên tắc thể hiện vai trò, trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự - Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền (Điều 7 BLTTDS 2015) Nguyên tắc này đòi hỏi cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nào lưu giữ chứng cứ phải có nghĩa vụ cung cấp cho đương sự, Viện kiểm sát và Tòa án theo yêu cầu của họ và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó. Ví dụ: Trong một vụ án về tranh chấp quyền sử dụng đất bên phía nguyên đơn cần các tài liệu liên quan đến trích lục bản đồ địa chính, để chứng minh diện tích đất tranh chấp là của mình, nên có đơn đề nghị xin được cấp trích lục bản đồ địa chính tại văn phòng quản lý đất đai nơi có đất. Trong trường hợp này văn phòng quản lý đất đai có trách nhiệm cung cấp trích lục bản đồ địa chính có liên quan đến diện tích đất tranh chấp cho đương sự. Nếu phòng quản lý đất đai từ chối cấp, đương sự có quyền làm đơn nhờ Tòa án thu thập giúp. Nếu không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ. - Nguyên tắc việc tham gia tố tụng dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức (Điều 23 BLTTDS 2015) Cá nhân, cơ quan, tổ chức tuy không phải là đương sự trong vụ việc dân sự nhưng vẫn có thể có quyền và nghĩa vụ tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của BLTTDS 2015

Ví dụ: Liên quan đến vụ án ly hôn, ngoài sự tham gia của các bên đương sự thì cũng có thể có sự tham gia của những người liên quan khác trên cơ sở quyền lợi và nghĩa vụ của họ như trong quá trình chung sống vợ chồng có vay người khác một khoản tiền để kinh doanh và làm ăn phát triển kinh tế gia đình. Thì trong hoạt động tố tụng chủ nợ có thể tham gia với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan độc lập để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của vợ chồng sau khi ly hôn.

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Thế nào là vụ án dân sự, việc dân sự, vụ việc dân sự, tố tụng dân sự và Luật tố tụng dân sự? Câu 2: Trong các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự nguyên tắc nào bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự? Câu 3: Phân tích nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Việc đảm bảo tranh tụng trong xét xử có ý nghĩa như thế nào trong hoạt động cải cách tư pháp hiện nay?

Chương 2 THẨM QUYỀN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 

Mục tiêu

Sinh viên nắm được và phân biệt được các loại vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, thẩm quyền của Toà án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức khác; việc phân định thẩm quyền giữa các Toà án theo cấp và theo lãnh thổ; theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu. Qua đó sinh viên vận dụng được những kiến thức đã được học để lựa chọn Tòa án đúng thẩm trên cơ sở các tình huống thực tế để quyền giải quyết các vụ việc dân sự  -

Nội dung giảng dạy

Khái niệm thẩm quyền dân sự và ý nghĩa việc xác định

thẩm quyền dân sự của Tòa án

yêu cầu

-

Thẩm quyền dân sự của Toà án theo vụ việc

-

Thẩm quyền của Toà án nhân dân các cấp

-

Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ

-

Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người

-

Chuyển vụ việc dân sự cho Toà án khác; giải quyết

tranh chấp về thẩm quyền; tách và nhập vụ án dân sự  Phương pháp giảng dạy Để giúp sinh viên hiểu rõ vấn đề giảng viên đi sử dụng phương pháp gọi tên vấn đề, kết hợp với phương pháp thuyết giảng. Bên cạnh đó, giảng viên sử dụng phương pháp đặt các câu hỏi phát vấn để kiểm tra kiến thức cũ và đánh giá khả năng nắm bắt bài học của người học.  Tài liệu học tập Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật hôn nhân và gia đình 2014 Luật Quốc tịch 2008, Luật thương mại 2012, Bộ luật lao động 2012… Nghị quyết số: 02/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của quốc hội về việc thi hành bộ luật tố tụng dân sự và nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của quốc hội về việc thi hành luật tố tụng hành chính

Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự 2.1. KHÁI NIỆM THẨM QUYỀN DÂN SỰ VÀ Ý NGHĨA VIỆC XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN 2.1.1. Khái niệm thẩm quyền dân sự của Tòa án Theo từ điển tiếng Việt, “thẩm quyền” là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật. Theo từ điển Luật học, “thẩm quyền” là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định Ví dụ: A khởi kiện xin ly hôn với B và yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng A-B, trong đó có một căn nhà ở quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng nhưng thực tế đã không sống chung với nhau từ 2 năm trước đây. B đang sống chung với mẹ đẻ tại quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng. Vậy A phải nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nào? Trong khoa học pháp luật tố tụng dân sự cũng như trong thực tiễn, khái niệm “thẩm quyền” được hiểu về cơ bản thống nhất, bao gồm hai nội dung cốt lõi: quyền xem xét giải quyết vụ việc và quyền hạn ra quyết định khi giải quyết vụ việc đó. Thẩm quyền dân sự của Tòa án là quyền xem xét giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tung dân sự của Tòa án. Ở Việt Nam, thẩm quyền dân sự của Tòa án nhân dân được tiếp cận ở ba góc độ: thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền của Tòa án các cấp, và thẩm quyền theo lãnh thổ (trong đó bao gồm thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu). 2.1.2. Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền dân sự của Tòa án. Phân định một cách hợp lý, khoa học thẩm quyền dân sự của Tòa án là một trong những vấn đề then chốt của Luật tố tụng dân sự - Việc xác định thẩm quyền giữ các Tòa án nhằm mục đích tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa Tòa án với các cư quan nhà nước khác và giữa các Tòa án với nhau, góp phần giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc dân sự, nâng cao hiệu quả, lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án, đồng thời giảm bớt những phiền phức cho đương sự

- Có ý nghĩa trong việc hoạch định chiến lược đội ngũ cán bộ, nhân viên trong Tòa án về chuyên môn, nghiệp vụ và các điều kiện khác, nhằm có kế hoạch đáp ứng, bảo đảm cho Tòa án thực hiện được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. 2.2.

THẨM QUYỀN DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN THEO LOẠI VIỆC

2.2.1. Cơ sở xác định những loại việc thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án Thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc là thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự. Cơ sở để xác định thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc là bản chất của vụ việc, cụ thể là tính chất của quan hệ pháp luật nội dung mà Tòa án cần giải quyết trong vụ án. Chỉ những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự (hiểu theo nghĩa rộng), tức là các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động mới thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án, và được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự (từ Điều 26 đến Điều 34 BLTTDS). Hiện nay, đối với những việc phát sinh từ các quan hệ pháp luật chưa được BLTTDS quy định thuộc thẩm quyền của Tòa án thì theo nguyên tắc mới được quy định tại Điều 4 quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của BLTTDS 2015 và Điều 45 nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng thì Tòa án không được từ chối thụ lý một vụ việc dân sự vì lý do luật chưa quy định, mặc dù Tòa án có quyền quyết định bác yêu cầu của người khởi kiện nếu yêu cầu đó không có căn cứ xác đáng, hoặc pháp luật quy định Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết sau khi vụ việc đã được các cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước hoặc đương sự đã yêu cầu nhưng cơ quan, tổ chức có thẩm quyền không giải quyết trong thời hạn luật định. Ví dụ: Tranh chấp quyền sử dụng đất, Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết khi đã được hòa giải tại ủy ban nhân dân cấp xã (Điều 203 Luật đất đai 2013) hay Tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi nộp đơn khởi kiện tại Tòa án (Điều 201, Bộ Luật Lao động 2012) 2.2.2. Nội dung những loại việc thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án Hiện nay, các vụ việc thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án được quy định tại các điều từ Điều 26 đến Điều 33 BLTTDS năm 2015 và một số điều luật của văn bản pháp luật khác. 2.2.2.1. Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự

Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định các quan hệ pháp luật dân sự (theo nghĩa hẹp) sau thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: a. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều 26 BLTTDS 2015) - Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân. Đây là những tranh chấp về xác định, thay đổi, nhập, thôi, trở lại quốc tịch Việt Nam giữa các cá nhân với nhau được ghi nhận tại Luật Quốc tịch 2008, sửa đổi bổ sung 2014. - Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản: Đây là những tranh chấp liên quan đến việc xác nhận ai là chủ sở hữu tài sản, đòi lại tài sản, quyền yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản… - Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự: Bộ luật TTDS 2004 (Sửa đổi bổ sung năm 2011) tại khoản 3 Điều 25 quy định thẩm quyền của Tòa án đối với tranh chấp về hợp đồng dân sự, sang BLTTDS 2015 tại khoản 3 Điều 26 quy định đối tượng tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án ở đây là cả giao dịch dân sự và hợp đồng dân sự. Việc quy định thêm giao dịch dân sự thể hiện mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp từ các giao dịch dân sự như hành vi pháp lý đơn phương (ví dụ giấy ủy quyền, di chúc, văn bản chấp thuận, văn bản cam kết …) làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý; hoặc hợp đồng dân sự phát sinh từ việc giao kết, thực hiện, sửa đổi và chấm dứt hợp đồng. - Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ thông thường là tranh chấp phát sinh từ hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, giải pháp hữu ích, bí mật kinh doanh, tên thương mại và tranh chấp phát sinh do hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên nếu các bên tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận thì tranh chấp sẽ được xếp vào tranh chấp kinh doanh thương mại. Ví dụ: Vụ vi phạm bản quyền phim “Cô Ba Sài Gòn” - một tác phẩm điện ảnh mới của Ngô Thanh Vân - gây xôn xao dư luận. Cụ thể là một sinh viên 19 tuổi đã dùng điện thoại phát trực tiếp (livestream) cảnh phim “Cô Ba Sài Gòn” đang chiếu trong rạp lên trang Facebook “Phim+”, thu hút hơn 5.300 lượt xem chỉ sau 30 phút. Hành vi này ước tính gây thiệt hại hơn 300 triệu đồng cho nhà sản xuất. Mặc dù hành vi của sinh viên này không nhằm mục đích sinh lợi, chỉ muốn được nổi tiếng nhưng đã xâm hại nghiêm trọng đến bản quyền của bộ phim. Trường hợp này nếu Ngô

Thanh Vân khởi kiện Tòa án sẽ thụ lý theo thủ tục TTDS được quy địn tại khoản 4 Điều 26 BLTTDS 2015 - Tranh chấp về thừa kế tài sản. Có hai loại tranh chấp điển hình về thừa kế:  Tranh chấp quyền thừa kế như: tranh chấp liên quan đến việc yêu cầu chia di sản thừa kế, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác)  Tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như: yêu cầu Tòa án buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản… Ví dụ: A và B có vay của bà C khi còn sống số tiền 150 triệu đồng, A và B có một người con là D, tài sản của A và B tổng cộng 100 triệu đồng. Sau khi A và B chết C yêu cầu D phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho A và B đối với phần di sản để lại. D không đồng ý với lý do cha mẹ của D vay nên D không có nghĩa vụ phải trả, C sau đó đã khởi kiện ra tòa yêu cầu Tòa án buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. -

Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đặc trưng của loại tranh chấp này là giữa người gây thiệt hại và người bị

thiệt hại không có quan hệ hợp đồng, hoặc có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không liên quan đến hợp đồng giữa các bên. Ví dụ: yêu cầu bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng mà người khác sở hữu gây ra… - Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính. (Được quy định cụ thể tại Điều 61 Luật cạnh tranh 2004) -

Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn

nước theo quy định của Luật tài nguyên nước. -

Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp

về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng Ví dụ tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất…

-

Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định

của pháp luật về báo chí. Ví dụ: Tranh chấp liên quan đến hoạt động báo chí mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Tòa án như tranh chấp về việc không đăng bài cải chính những tin tức xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của công dân, tranh chấp về bồi thường thiệt hại do báo chí đăng tin không đúng gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức… hiệu

-

Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô

Văn bản công chứng bao gồm hợp đồng, giao dịch bằng văn bản đã công chứng. Các tranh chấp giữa các bên liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu có bản chất là tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án. Ví dụ: Chị C là con của ông B, Chị C đã lấy trộm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy CMND và các giấy tờ khác của ông B, đồng thời làm thủ tục chuyển nhượng đất cho ông A. Hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng, chị C giả chữ ký ký thay cho ông B và đem hợp đồng đến Văn phòng công chứng để Công chứng viên D công chứng hợp đồng chuyển nhượng đất. Do Công chứng viên D không chứng kiến các bên ký hợp đồng nhưng vẫn thực hiện công chứng hợp đồng. Sau khi hợp đồng đã công chứng, ông A phát hiện C gian dối giả chữ ký nên yêu cầu tuyên bố văn bảo công chứng vô hiệu. -

Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo

quy định của pháp luật về thi hành án dân sự Tranh chấp này có thể nảy sinh giữa người phải thi hành với các đồng sở hữu chủ khác hoặc người thứ ba liên quan đến tài sản bị cưỡng chế kê biên. Ví dụ: Theo bản án của Tòa án thì A phải trả B 500 triệu đồng. Do A không tự nguyện thi hành án nên Cơ quan thi hành án thông báo cho A về việc cưỡng chế quyền sử dụng đất là tài sản của A. C và D cho rằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của A, C và D nên khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của C và D trong khối tài sản chung của A, C và D. Trong trường hợp này Tòa án căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung 2014 và khoản 12 Điều 26 của BLTTDS 2015 để thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung. -

Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký

mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Việc bán tài sản kê biên để thi hành án dân sự tùy trường hợp sẽ được bán thông qua hình thức bán đấu giá hoặc không qua thủ tục bán đấu giá.

Ví dụ: Năm 2008 bà A vay tiền của ngân hang B để kinh doanh với số tiền là 22 tỷ, thế chấp căn nhà trị giá 25 tỷ cho Ngân hang TMCP B. Do bà A không trả vốn và lãi đúng hạn nên ngân hàng đã khởi kiện TAND TP.HCM xử buộc chủ nhà phải trả cho ngân hàng hơn 23 tỉ đồng. Năm 2013, Chi cục THA dân sự quận 1 tổ chức phát mại căn nhà trên. THA ký hợp đồng giao Công ty TNHH Dịch vụ đấu giá C tiến hành bán đấu giá căn nhà, với giá khởi điểm 30 tỷ. Trong quá trình bán đấu giá bà A không hề biết địa điểm bán đấu giá, không được thông báo văn bản kết quả bán đấu giá. Cộng với việc công ty TNHH Dịch vụ đấu giá đã bán đấu giá thấp hơn mức khởi điểm là 26 tỷ đồng cho E và nhìêu sai phạm liên quan đến thủ tục đấu giá. Nên bà A đã khởi kiện yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá này. - Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. b. Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều 27 BLTTDS 2015) - Yêu cầu liên quan đến việc xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Bao gồm các yêu cầu tuyên bố hoặc yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Ví dụ: A do tai nạn giao thông mà não bị tổn thương dẫn đến trong cuộc sống có lúc nhận thức được sự việc xung quanh, có lúc lại không nhận thức được sự việc xung quanh. Theo yêu cầu của B là vợ A đã yêu cầu tòa án tuyên A khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi của mình sau khi trưng cầu quyết định giám định pháp y tâm thần. Người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là đối tượng mới được đề cập trong Bộ luật dân sự 2015 (Điều 23 BLDS 2015) và yêu cầu liên quan đến việc xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân của đối tượng này cũng mới được đề cập trong BLTTDS 2015 trước đây BLTTDS 2004 chưa đề cập đến yêu cầu này. - Các việc liên quan đến sự vắng mặt của cá nhân tại nơi cư trú Bao gồm yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó; yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết; hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. Ví dụ: A và B là vợ chồng (cùng trú tại huyện H) ngày 01/01/2010 ông B bỏ nhà đi. Nhưng kể từ sau ngày này mặc dù đã được bà A áp dụng các biện pháp thông báo tìm kiếm ông B theo quy định của BLDS nhưng không có kết

quả. Bà A gửi đơn đến tòa án huyện H yêu cầu tòa án tuyên bố ông B mất tích. Ngày 20/3/2013 Tòa án huyện H tuyên bố ông B mất tích. 3 năm sau đó bà A có đơn yêu cầu tòa án huyện H tuyên bố ông B đã chết và được tòa án thụ lý giải quyết. Ngày 20/04/2016 Tòa án huyện H ra quyết định tuyên bố ông B đã chết. - Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. Toà án Việt Nam sẽ tiến hành việc công nhận trong trường hợp bản án, quyết định của toà án của nước mà Việt Nam và nước đó đã ký hiệp định tương trợ tư pháp (HĐTTTP). Ngoài ra, việc công nhận cũng có thể được xem xét trên cơ sở có đi có lại mà không đòi hỏi nước đó đã ký HĐTTTP hay chưa. Vụ việc ông Nguyễn Đức An, Việt kiều Mỹ mới đây kiện vợ cũ của mình – người mẫu Ngọc Thuý – để đòi khối tài sản trị giá khoảng 288 tỉ đồng đặt ra một số vấn đề pháp lý thú vị. Trong đó phần bản án của Toà án Hoa Kỳ đã có phán quyết những tài sản ấy là sở hữu của ông An nhưng vì sao ông này vẫn phải kiện lại tại toà án Việt Nam? - Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu Đây là trường hợp giữa người yêu cầu công chứng và công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng không có tranh chấp mà chỉ yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, do không thõa mãn các điều kiện có hiệu lực của văn bản công chứng hoặc khi có căn cứ cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật. Ví dụ như công chứng viên không đủ điều kiện công chứng…. - Yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung một chương mới về “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án” (Chương XXXIII) để tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải. Hiện nay ở Việt Nam và các nước đều tồn tại ba loại hòa giải: Hòa giải tư pháp, hòa giải tại cộng đồng dân cư và hòa giải thương mại, dân sự, lao động. Hòa giải tư pháp là loại hòa giải được cơ quan tố tụng tiến hành trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự (Ví dụ hòa giải tại Tòa án khi tiến hành giải quyết vụ việc về ly hôn). Hòa giải tại cộng đồng là hòa giải những mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật trong cộng đồng dân cư mà ở nước ta gọi là hòa giải ở cơ sở (ví

dụ việc hòa giải tại cấp cơ sở đối với tranh chấp đất đai theo quy định của Luật đất đai 2013 là thủ tục bắt buộc). Hòa giải thương mại đối với các tranh chấp thương mại do các trung tâm hòa giải thương mại thực hiện. - Yêu cầu công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ, công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý đối với tài sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là một trong những việc dân sự thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam được quy định tại Điều 470 BLTTDS 2015. - Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án và yêu cầu khác theo quy định của Luật thi hành án dân sự Ví dụ: Theo bản án của Tòa án thì A phải trả B 500 triệu đồng nhưng do A không tự nguyện thi hành án nên Cơ quan thi hành án thông báo cho A về việc cưỡng chế quyền sử dụng đất là tài sản của A nhưng A cho rằng quyền sử dụng đất này là tài sản chung của A và C. Do A và C không tự phân chia phần tài sản của mình trong khối tài sản chung và không khởi kiện. Trường hợp này, nếu B yêu cầu xác định phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung, nếu sau 15 ngày kể từ ngày thông báo mà người được thi hành án không có yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Toà án xác định phần tài sản của A trong khối tài sản chung. Tòa án căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung 2014 và khoản 9 Điều 27 của BLTTDS 2015 để thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung - Các yêu cầu khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. 2.2.2.2.

Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình

a. Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều 28 BLTTDS 2015) hôn

Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và sau khi ly

Trong một vụ án ly hôn, thông thường có ba vấn đề cần giải quyết: quan hệ nhân thân (chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng; quan hệ tài sản (chia tài sản chung khi ly hôn); xác định ai là người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Nếu đương sự thuận tình ly hôn và thỏa thuận được việc nuôi con và chia tài sản chung khi ly hôn, khi đó Tòa án sẽ thụ lý giải quyết việc ly hôn và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên. Nếu các bên có tranh chấp về một trong các

vấn đề nêu trên mà không thỏa thuận được với nhau thì Tòa án sẽ tiến hành giải quyết theo thủ tục một vụ án dân sự. nhân

Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

Theo quy định tại Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình 2014 vợ chồng trong thời kì hôn nhân có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung (việc thỏa thuận phải được lập bằng văn bản và công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật), nếu các bên không thỏa thuận được có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. - Tranh chấp về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn Được quy định trực tiếp tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014 việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn đặc ra khi cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi vì lợi ích của con hoặc người trực tiếp nuôi con không có đủ điều kiện để trực tiếp trông non, nuôi dưỡng, giáo dục con. Khi thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên phải hỏi ý kiến của con. Ví dụ: Tại quyết định Công nhận thuận tình ly hôn số 206/2016/QĐST -HNGĐ ngày 12/12/2016, Tòa án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang đã giải quyết ly hôn giữa anh L với T và giao hai con chung là Giáp Thị Ngọc A, sinh ngày 25/2/2014 và Giáp Thị Hà M, sinh ngày 25/9/2015 cho chị Thư trực tiếp nuôi con, vấn đề cấp dưỡng không đặt ra xem xét. Tại thời điểm thụ lý đơn khởi kiện của anh Giáp Ngọc L đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn ngày 19 tháng 4 năm 2017 cháu A đã trên 36 tháng tuổi và trên thực tế thì cháu Ngọc A vẫn đang ở với anh và do anh nuôi dưỡng từ khi ly hôn cho đến nay, cháu Ngọc A phát triển bình thường. Hơn nữa anh L hiện đang làm nghề kinh doanh hàng ăn tại nhà với mức thu nhập từ 12 đến 15 triệu đồng trên một tháng (so với mức thu nhập bình quân ở địa phương là 26.000.000 đồng/năm), còn chị T làm thợ may lương 3.000.000 đồng/ tháng, như vậy anh L có đủ điều kiện chăm sóc cháu Ngọc A. Sau khi xem xét theo nguyện vọng và điều kiện của các bên Tòa án đã quyết định giao cháu Ngọc A cho anh L chăm sóc và nuôi dưỡng.6 mẹ.

Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha,

6 Bản án sơ thẩm số 22/2017/HNGĐ V/v: "Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn” của TAND huyện Tân Yên – Bắc Giang. https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta23889t1cvn/chi-tiet-ban-an

Đối với các yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con một cách tự nguyện, không có tranh chấp thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong trường hợp này theo quy định của Luật hộ tịch năm 2014 thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã, nơi cư trú của người nhận hoặc người được nhận là cha, mẹ, con (Điều 24, Luật hộ tịch 2014) kể cả việc nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam thường trú tại địa bàn xã đó với công dân của nước láng giềng thường trú tại đơn vị hành chính tương đương cấp xã của Việt Nam

(khoản 1, Điều 19, Nghị định

135/2015). Đối với việc đăng ký nhận cha, mẹ, con mà ít nhất một bên có yếu tố nước ngoài thì UBND cấp huyện nơi cư trú của người được nhận là cha, mẹ, con thực hiện đăng ký nhận cha, mẹ, con (Điều 43, Luật hộ tịch 2014). - Tranh chấp về cấp dưỡng Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con; giữa anh chị em với nhau; giữa ông bà nội, ngoại và cháu, giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng khi ly hôn. -

Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo Tranh chấp về mang thai hộ, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được hiểu là những tranh chấp về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 97, 98 Luật hôn nhân và gia đình 2014, như bên nhờ mang thai hộ không thực hiện nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, từ chối nhận con…. -

Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với

nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật. b. Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều 29) - Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định. Ví dụ: Chị B sinh ngày 10-01-1997, đến ngày 08-01-2015 chị B đăng ký kết hôn với anh A tại Ủy ban nhân dân xã X. Tại thời điểm đăng ký kết hôn chị B chưa đủ 18 tuổi (ngày chị B đủ 18 tuổi là ngày 10-01-2015), như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì chị B đã đủ tuổi kết hôn, tuy nhiên vì ngày chị B đăng ký kết hôn Luật hôn nhân và gia

đình đã có hiệu lực (ngày 01-01-2015) nên chị B đã vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình. Nếu có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật Tòa án thụ lý việc hủy kết hôn trái pháp luật. - Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn Tòa án chỉ thụ lý yêu cầu thuận tình ly hôn khi có đầy đủ các điều kiện sau: hai bên vợ và chồng đều thật sự tự nguyện ly hôn; hai bên đã thỏa thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục chăm sóc con. - Yêu cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình - Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn. Các trường hợp hạn chế quyền của cha mẹ được quy định tại Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình: Cha, mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con hoặc cha, mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con; phá tán tài sản của con; có lối sống đồi trụy; xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luât, trái đạo đức xã hội. Ví dụ: Vụ việc bé trai Trần G.K. (10 tuổi, trú ở phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội) bị chính bố đẻ Trần Hoài Nam (34 tuổi) và mẹ kế bạo hành dã man đang khiến dư luận rất bức xúc, phẫn nộ. Đã bị công an Cầu Giấy (Hà Nội) khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Trần Hoài Nam (SN 1983, ở Nghĩa Đô) và Phạm Thị Tú Trinh (SN 1983, ở Bà Rịa Vũng Tàu) về tội “Ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình” theo Điều 151 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung 2011 ( Điều 185 Bộ luật Hình sự 2015). Trong trường hợp này mẹ hoặc người giám hộ, người thân thích và các cơ quan, tổ chức khác theo quy định pháp luật có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con sau ly hôn cũng như có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của Nam đối với con của mình là cháu Trần G.K sau khi bị kết án về hành vi bạo hành của mình. - Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi

- Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình - Yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án. Khác với việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, việc “trở lại” với chế độ tài sản chung chỉ có thể được thực hiện một khi có sự đồng ý của cả vợ và chồng. Trong trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý, người còn lại không có quyền kiện yêu cầu khôi phục chế độ tài sản chung bằng con đường tư pháp. Trong trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải được Tòa án công nhận. - Yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình - Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. - Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. - Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. 2.2.2.3.

Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại

a. Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án - Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận Như các tranh chấp về mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; xây dựng; tư vấn kỹ thuật, vận chuyển hàng hóa, hành khách; mua bán cổ phiếu, trái phiếu, giấy tờ khác; đầu tư tài chính ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác. Ví dụ: Công ty trách nhiệm hữu hạn A được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực may mặc. Hoạt động của công ty A không chỉ giới hạn ở việc may sản phẩm là hàng dệt may để phục vụ thị trường mà còn bao gồm cả hành vi mua nguyên vật liệu về để sản xuất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm

trang thiết bị, thuê xe ô tô để đưa công nhân đi làm, đi nghỉ hàng năm theo chế độ hoặc mua một số ti vi để cho công nhân giải trí sau giờ làm việc,... Vậy trong trường hợp này giả sử có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng giữa công ty X và công ty du lịch thì tranh chấp này có phải là tranh chấp kinh doanh thương mại không? - Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Đối với các tranh chấp quy định tại khoản 2 Điều 30 của BLTTDS 2015 thì không nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại; nếu chỉ có một bên có mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận, thì tranh chấp đó là tranh chấp về dân sự quy định tại Khoản 4 Điều 26 của BLTTDS 2015. Ví dụ: Năm 2014 ca sĩ Trần Lập khởi kiện trang nghe nhạc trực tuyến Zing MP3 (thuộc Công ty Cổ phần VNG) dung đơn khởi kiện của Trần Lập thì anh phát hiện trang mạng xã hội trực tuyến Zing MP3 có đăng tải và chia sẻ bài hát “Đường đến vinh quang” mà anh là tác giả nhưng không thực hiện nghĩa vụ tác quyền. Hay vụ việc năm 2013, ca sĩ Lệ Quyên cũng kiện 9 trang nghe nhạc trực tuyến đã sử dụng CD “Khúc tình xưa 2” và “Tình khúc yêu thương” của cô với số tiền lên đến 11 tỷ đồng (trong đó Zing MP3 là 6 tỷ đồng). Ở đây Tòa án sẽ thụ lý giải quyết theo quy định thủ tục TTDS tại khoản 2 Điều 30 BLTTDS 2015. - Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty. Ví dụ: A và B chung vốn để mở Công tyTNHH. Công ty đang trong quá trình đăng ký thành lập. Tuy nhiên, người B không muốn góp vốn nữa và muốn rút ra, vì vậy xảy ra tranh chấp. Trong trường hợp này Tòa án sẽ áp dụng khoản 3 điều 30 BLTTDS 2015 để giải quyết theo thủ tục dân sự. - Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp

nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Nếu giữa công ty với các thành viên của công ty hoặc giữa các thành viên của công ty có tranh chấp với nhau, nhưng tranh chấp đó không liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty mà chỉ liên quan đến các quan hệ khác như quan hệ lao động, quan hệ dân sự (ví dụ: Tranh chấp về bảo hiểm xã hội, về trợ cấp cho người lao động, về hợp đồng lao động, về hợp đồng vay, mượn tài sản,...) thì tranh chấp đó không phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại - Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. b. Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án - Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội đồng thành viên theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. - Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại. Ví dụ: Chỉ định, thay đổi trọng tài viên (Trong trường hợp các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của một hoặc các Trọng tài viên, của một hoặc các bên tranh chấp, Chánh án Toà án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên quy định tại Điều 42 Luật Trọng tài thương mại 2010); áp dụng dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; hủy quyết dịnh trọng tài… được quy định tại Điều 414 BLTTDS 2015. - Yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển theo quy định của pháp luật về hàng không dân dụng Việt Nam, về hàng hải Việt Nam, trừ trường hợp bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án. Theo đó, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bắt giữ tàu bay tại cảng hàng không, sân bay để bảo đảm lợi ích của chủ nợ, chủ sở hữu, người thứ ba ở mặt đất bị thiệt hại hoặc người khác có quyền, lợi ích đối với tàu bay hoặc để thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật về hàng không dân dụng Việt Nam. - Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài hoặc không công

nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. Toà án Việt Nam sẽ tiến hành việc công nhận trong trường hợp bản án, quyết định của toà án của nước mà Việt Nam và nước đó đã ký hiệp định tương trợ tư pháp (hiện nay Việt Nam và các nước đã tiến hành ký kết 27 Hiệp định tương trợ tư pháp). Ngoài ra, việc công nhận cũng có thể được xem xét trên cơ sở có đi có lại mà không đòi hỏi nước đó đã ký HĐTTTP hay chưa. - Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài. - Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. 2.2.2.4. Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật lao động (Điều 32 – 33 BLTTDS 2015) Các vụ việc về lao động thuộc thẩm quyền của Tòa án bao gồm các tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể và các tranh chấp liên quan đến đến lao động và các yêu cầu về lao động - Đối với tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động, Tòa án giải quyết trong trường hợp đã qua hòa giải mà không thực hiện, thực hiện không đúng, hòa giải không thành hoặc hòa giải trong thời hạn do pháp luật quy định (trừ 5 trường hợp theo khoản 1 Điều 32 BLTTDS 2015). Ví dụ như tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương... - Đối với tranh chấp lao động tập thể chia làm hai loại: tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích (Điều 203 Bộ luật Lao động 2012). Trong hai loại này Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền, còn liên quan đến lợi ích sẽ do hòa giải viên lao động hoặc hội đồng trọng tài lao động giải quyết. Các tranh chấp lao động tập thể về quyền thuộc thẩm quyền của Tòa án như: tranh chấp về việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động, nội quy lao động đã được đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thỏa thuận khác ở doanh nghiệp đã được Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết mà người lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện không giải quyết trong thời hạn luật định (5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn, theo quy định Điều 205 BLLĐ 2012). - Tòa án còn có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về lao động (Điều 33 BLTTDS 2015) như tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu, yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công…

2.3. THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP 2.3.1. Cơ sở của việc phân định thẩm quyền của Tòa án các cấp Tòa án Việt Nam hiện nay tổ chức theo đơn vị hành chính – lãnh thổ, trong các Tòa án chỉ có TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện đều có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm, nên khác với nhiều nước trên thế giới, thẩm quyền dân sự của Tòa án ở Việt Nam còn được xem xét dưới góc độ thẩm quyền của Tòa án các cấp (tức là xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự đối với một vụ việc cụ thể thuộc về Tòa án cấp tỉnh hay Tòa án cấp huyện) Việc phân định thẩm quyền dân sự của Tòa án nhân dân các cấp phải dựa trên các cơ sở: - Tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân; - Tính chức phức tạp của từng loại vụ việc; - Số lượng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán, thư ký và cán bộ Tòa án khác; - Điều kiện sở vật chất, phương tiện kỹ thuật của Tòa án; - Bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng. 2.3.2. Phân định thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp 2.3.2.1. Thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện Theo quy định tại Điều 35 BLTTDS 2015 thì Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau: - Các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án (quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này. Đối với yêu cầu được quy định các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9 và 10 Điều 27 của Bộ luật này, khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 29 của Bộ luật này) - Các tranh chấp, yêu cầu phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều cố mục đích lợi nhuận (đối với tranh chấp quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này. Đối với yêu cầu được quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 31 của Bộ luật này). - Tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể về quyền giữa người lao động với người sử dụng lao động, các yêu cầu về lao động Nếu tại TAND cấp huyện có các Tòa chuyên trách thì các Tòa chuyên trách của TAND cấp huyện sẽ có thẩm quyền giải quyết các vụ việc thuộc phạm vi chức

năng, nhiệm vụ của mình7, đây là quy định mới được đề cập tại BLTTDS 2015. Đối với những tranh chấp mà đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài cho Tòa án, cơ quan nước ngoài thì không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện. Tuy nhiên hiện nay BLTTDS 2015 (khoản 4 Điều 35) đã mở rông thẩm quyền cho TAND cấp huyện so với BLTTDS 2005 sửa đổi bổ sung 2011 về giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, với những vụ việc phát sinh tại khu vực biên giới giữa Việt Nam với nước láng giềng. Đó là trường hợp Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam. 2.3.2.2.

Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Theo quy định tại Điều 37 BLTTDS 2015 thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau: - Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính. (khoản 7 Điều 26); - Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. (khoản 2 Điều 30); - Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty (khoản 3 Điều 30); - Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn… (khoản 4 Điều 30). - Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại. (khoản 2 Điều 31);

7 Xem Thông tư số 01/2016/TT-CA về “Quy định việc tổ chức các tòa chuyên trách tại tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương”

- Yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển theo quy định của pháp luật về hàng không dân dụng Việt Nam, về hàng hải Việt Nam, trừ trường hợp bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án (khoản 3 Điều 31); - Yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công (khoản 2, Điều 33); - Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Tòa án nướ ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết đinh của Tòa án nước ngoài; yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các phán quyết của trọng tài nước ngoài ( quy định tại khoản 5 Điều 27; khoản 9 – Điều 29; khoản 4 và 5 Điều 31; khoản 3 và 4 Điều 33); - Những vụ việc mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài (khoản 3 Điều 35). Ngoài ra trong trường hợp thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh còn có thẩm quyền sơ thẩm những vụ vệc dân sự thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện. Ví dụ như trong trường hợp việc vận dụng pháp luật, chính sách gặp nhiều khó khăn, phức tạp; điều tra viên thu thập chứng cứ khó khăn; đương sự là cán bộ chủ chốt ở địa phương, những người có uy tín trong tôn giáo mà xét thấy việc TAND huyện giải quyết không có lợi về chính trị hoặc không đảm bảo khách quan vụ án. Trong TAND cấp tỉnh có các tòa chuyên trách , theo đó mỗi Tòa chuyên trách sẽ có thẩm quyền thụ lý giải quyết những vụ việc dân sự trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. 2.4.

THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN THEO LÃNH THỔ

2.4.1. Cơ sở của việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ Việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ việc dân sự giữa các Tòa án cùng cấp với nhau. Mục đích của việc phân định này nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án được nhanh chóng, đúng đắn (Tòa án nào có điều kiện xem xét, đánh giá và thu thập chứng cứ tốt nhất); đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng và bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Nguyên tắc chung để phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ dựa vào mối liên hệ giữa khu vực địa lý nơi có Tòa án đó với vụ việc cần giải quyết, thông thường là mối liên hệ với đương sự trong vụ án (ví dụ như Tòa án nơi bị

đơn cư trú, làm việc hay Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn) hoặc với tài sản là đối tượng tranh chấp (ví dụ như Tòa án nơi có bất động sản), hoặc với sự kiện pháp lý làm phát sinh tranh chấp (ví dụ như Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật…) 2.4.2. Phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ. Thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau (Điều 39 BLTTDS 2015): - Tòa án nơi bị đơn (điểm a, khoản 1 Điều 39), người bị yêu cầu (điểm a, b khoản 2, Điều 39), người phải thi hành (điểm d và e khoản 2, Điều 39) cư trú, làm việc hoặc có trụ sở. Nếu họ là cơ quan tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này; Mục đích nhằm tạo điều kiện thuận lợi để bị đơn, người bị yêu cầu, người phải thi hành, người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng vì về mặt tâm lý họ thường không muốn tham gia tố tụng, do vậy thường nêu ra những khó khăn để không đến Tòa án; Ngoài ra cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án trong việc xác minh, giải quyết vụ việc và đảm bảo thi hành án tốt nhất. Tuy nhiên cần lưu ý các trường hợp sau: 

Nếu bị đơn cư trú một nơi, làm việc một nơi thì tòa án có thẩm quyền là tòa

án nơi mà bị đơn cư trú. Trường hợp không thể xác định được nơi cư trú thì Toà án nơi bị đơn làm việc có thẩm quyền giải quyết. Xác định nơi cư trú của một cá nhân phải căn cứ vào Điều 40 BLDS 2015: nơi cư trú là nơi người đó thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống. 

Nếu Toà án đã thụ lý và thông báo nội dung khởi kiện, nội dung yêu cầu cho

bị đơn, sau đó bị đơn chuyển đi nơi khác không thông báo cho nguyên đơn, người yêu cầu hoặc Toà án, thì Tòa án sẽ coi là bị đơn cố ý dấu địa chỉ. Toà án đã thụ lý vụ việc yêu cầu nguyên đơn, bên yêu cầu thực hiện nghĩa vụ chứng minh và giải quyết theo thủ tục chung. 

Nếu Toà án chưa có thông báo hoặc không chứng minh được bị đơn, người

bị yêu cầu đã chuyển nơi khác sinh sống và cố tình dấu địa chỉ thì trường hợp này được coi là không xác định được địa chỉ của bị đơn,người bị yêu cầu. Nếu nguyên đơn không bổ sung được địa chỉ của bị đơn thì Toà án căn cứ khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 để trả lại đơn kiện. - Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản về việc yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn để giải quyết (điểm b, khoản 1 Điều 39).

Ví dụ: Anh A (cư trú tại quận Liên Chiểu, Đà Nẵng) khởi kiện chị B (cư trú tại Mộc Châu, Sơn La) về việc chị B không thực hiện nghĩa vụ trả nợ khoản vay 500 triệu mà chị B đã vay của anh A khi đến hạn trả nợ. Trường hợp này các bên có thể thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp thực hiện tại tòa án nhân dân quận Liên Chiểu . Lúc này tòa án nhân dân quận Liên Chiểu sẽ có thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên sự thỏa thuận chọn Toà án của đương sự phải bằng văn bản và phải phù hợp với quy định của pháp luật về thẩm quyền của Toà án các cấp như sau: Loại việc thuộc thẩm quyền Toà án cấp huyện thì không thể thỏa thuận chọn Toà án cấp tỉnh giải quyết. Ví dụ: Trong vụ án, nguyên đơn A cư trú tại huyện M của tỉnh N và bị đơn B cư trú tại huyện X của tỉnh Y. Theo nguyên tắc Tòa án huyện X tỉnh Y nơi bị đơn B cư trú có thẩm quyền. Nếu các bên thỏa thuận Tòa án nơi nguyên đơn A cư trú thì phải bảo đảm thẩm quyền của cấp Tòa án. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền Tòa án cấp huyện thì thỏa thuận chỉ được chấp nhận khi các đương sự thỏa thuận Tòa án huyện M của tỉnh N giải quyết. Nếu các đương sự thỏa thuận Tòa án tỉnh N giải quyết thì thỏa thuận đó không được chấp nhận.8  Không được chọn Toà án không có liên quan gì về đương sự cũng như tài sản.  Khi đương sự chỉ có những thoả thuận chung, không nêu rõ Toà án nào, thì người khởi kiện có quyền chọn Toà án nơi mình cư trú, làm việc, để giải quyết4. - Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết (điểm c, khoản 1 Điều 39). Sở dĩ có quy định này vì Tòa án nơi có bất động sản có điều kiện thuận lợi hơn trong việc xác minh, thu thập chứng cứ, thẩm định tại chỗ cũng như cho việc định giá tài sản. Bởi các hồ sơ giấy tờ liên quan đến nguồn gốc, thực trạng bất động sản, quyền đối với bất động sản đều được lưu giữ tại cơ quan quản lý nhà nước nơi có bất động sản.

8 Xem Khoản 2, Điều 8 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “những quy định chung” của bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự 4 Mục 1.1.1. Phần thứ ba Sổ tay thẩm phán, xem http://www.toaan.gov.vn

Lưu ý: Chỉ những quan hệ pháp luật có đối tượng tranh chấp là bất động sản (ví dụ như: Tranh chấp về quyền sử dụng đất; tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt nhà ở, công trình xây dựng trên đất…) thì mới theo quy định là Toà án nơi có bất động sản giải quyết; vụ án có tài sản là bất động sản nhưng không có tranh chấp (ví dụ: vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở mà nguyên đơn chỉ yêu cầu buộc thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng) hoặc có tranh chấp nhưng không phải là quan hệ pháp luật chính cần giải quyết (ví dụ: vụ án ly hôn mà có tranh chấp liên quan đến bất đất động sản là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân) thì không áp dụng điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS 2015. Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 39 BLTTDS 2015 cũng có những quy định ngoại lệ về việc xác định thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Tòa án theo lãnh thổ. Có thể chia thành ba nhóm thẩm quyền cụ thể: - Thẩm quyền liên quan đến mối quan hệ của đương sự trong việc dân sư, ví dụ như: Tòa án nơi người yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cư trú, làm việc (điểm c, khoản 2, Điều 39); Tòa án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc hoặc có trụ sở chính yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam; (điểm đ, khoản 2, Điều 39); Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn cư trú, làm viêc (điểm h, khoản 2, Điều 39); hay các trường hợp tại điểm a, b, d, đ, e, h, l, I, k, q, r, s, t, u khoản 2 Điều 39… - Thẩm quyền liên quan đến tài sản là đối tượng yêu cầu,, ví dụ như: Tòa án nơi có tài sản có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận tài sản đó có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ, công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý đối với tài sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam (điểm p khoản 2 Điều 39); - Thẩm quyền của tòa án liên quan đến một sự kiện pháp lý làm phát sinh yêu cầu, ví dụ: Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật (điểm g, khoản 2, Điều 39); Tòa án nơi xảy ra cuộc đình công có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công (điểm x, khoản 2, Điều 39); Ngoài ra còn có các điểm m, n, o, v, y khoản 2, Điều 39 BLTTDS 2015.

2.5. THẨM QUYỀN THEO SỰ LỰA CHỌN CỦA NGUYÊN ĐƠN, NGƯỜI YÊU CẦU Căn cứ vào Điều 40 BLTTDS 2015 thì nguyên đơn, người yêu cầu có quyền lựa chọn tòa án giải quyết các vụ việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Mục đích của quy định này nhằm tạo điều kiện cho nguyên đơn, người yêu cầu tham gia tố tụng bởi vì: - Thứ nhất, trong một số trường hợp việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ gặp khó khăn do không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn, hoặc vụ án có nhiều bị đơn mà các bị đơn cư trú , làm việc ở nhiều địa điểm khác nhau, hoặc tranh chấp về bất động sản ở nhiều nơi khác nhau; - Thứ hai, trong một số loại tranh chấp, nguyên đơn thường ở vị trí thế yếu so với bị đơn như tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động, hoặc nguyên đơn trong các vụ án về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nên pháp luật cho phép nguyên đơn có thể khởi kiện tại Tòa án nơi mình cư trú, làm việc hoặc có trụ sở. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng các quy về lựa chọn Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, thì ngoài việc phải thực hiện đúng quy định tại Điều 35 và Điều 37 của BLTTDS 2015 về thẩm quyền của các cấp Tòa án, cần phân biệt như sau: - Đối với trường hợp mà Điều 40 của BLTTDS 2015 quy định yêu cầu lựa chọn Tòa án giải quyết vụ việc dân sự phải có điều kiện, thì Tòa án chỉ chấp nhận yêu cầu khi điều kiện đó xảy ra. Ví dụ: Điểm a khoản 1 Điều 40 của BLTTDS 2015 quy định: “Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết”. Như vậy, chỉ trong trường hợp không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn, thì nguyên đơn mới có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết. - Đối với trường hợp mà Điều 40 của BLTTDS 2015 quy định yêu cầu lựa chọn Tòa án giải quyết vụ việc dân sự không cần bất cứ điều kiện nào, thì Tòa án chấp nhận yêu cầu đó. Ví dụ: Điểm d khoản 1 Điều 40 của BLTTDS 2015 quy định: “Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết”. Như vậy, trong trường hợp này việc yêu cầu lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp dân sự không đòi hỏi phải có bất kỳ điều kiện nào, nên nguyên đơn

có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết và Tòa án chấp nhận yêu cầu đó. - Trong trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu được quyền lựa chọn nhiều Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự (ví dụ: Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản quy định tại điểm a khoản 1 Điều 40 của BLTTDS), thì khi nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, Tòa án phải giải thích cho họ biết là chỉ có một Tòa án trong các Tòa án được Điều luật quy định mới có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự để họ lựa chọn. Cho nên người khởi kiện, người yêu cầu phải cam kết trong đơn khởi kiện hoặc trong đơn yêu cầu là không khởi kiện hoặc không yêu cầu tại các Tòa án khác. - Trong trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu nộp đơn khởi kiện, nộp đơn yêu cầu tại nhiều Tòa án khác nhau được Điều luật quy định, thì Tòa án đã thụ lý đầu tiên theo thời gian có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Các Tòa án khác, nếu chưa thụ lý thì căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 192 của BLTTDS 2015 trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; nếu đã thụ lý thì căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 192 và điểm g khoản 1 Điều 217 của BLTTDS 2015 ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự, xoá tên vụ việc dân sự đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự9. 2.6. CHUYỂN VỤ VIỆC DÂN SỰ CHO TOÀ ÁN KHÁC; GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THẨM QUYỀN; TÁCH VÀ NHẬP VỤ ÁN DÂN SỰ 2.6.1. Chuyển vụ việc dân sự cho Toà án khác Về nguyên tắc, vụ việc dân sự phải do Tòa án có thẩm quyền giải quyết, vì vậy Tòa án phải ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết nếu sau khi thụ lý vụ việc dân sự mà phát hiện thấy không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 39 BLTTDS 2015 cũng có quy định thêm trường hợp vụ án dân sự đã được Tòa án thụ lý và đang giải quyết theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ thì phải được Tòa án đó tiếp tục giải quyết mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án có sự thay đổi nơi cư trú, trụ sở hoặc địa chỉ giao dịch của đương sự. Quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết phải được lập thành văn bản, sau khi ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết, Tòa án xóa tên vụ việc đó trong sổ thụ lý và gửi ngay quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. Đương sự, cá nhân, cơ quan. Tổ chức có liên quan có quyền 9 Xem Điều 9 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “những quy định chung” của bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự

khiếu nại và Viện kiểm sát có quyền kiến nghị quyết định này theo quy định pháp luật. 2.6.2. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền Có thể có những vụ việc mà trong đó các đương sự gửi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đến nhiều Tòa án có thẩm quyền khác nhau, dẫn đến việc các Tòa án có sự tranh chấp về thẩm quyền giải quyết. Trường hợp này khoản 2, 3, và 4 Điều 41 BLTTDS 2015, các tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án được giải quyết như sau: - Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết. - Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác nhau hoặc giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp cao thì do Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết. - Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác nhau hoặc giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ của các Tòa án nhân dân cấp cao khác nhau do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải quyết. 2.6.3. Nhập và tách vụ án dân sự Viêc nhập vụ án dân sự hiện nay được quy định tại Điều 42 BLTTDS 2015. Tuy nhiên những quy định trên khá chung chung và không đưa ra được căn cứ cụ thể để Tòa án quyết định nhập hay tách vụ án dân sự. Xem xét các quy định khác có liên quan như quy định về phạm vi khởi kiện (Điều 188 BLTTDS 2015), quy định về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn (Điều 200 BLTTDS 2015) và Quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Điều 201 BLTTDS 2015) có thể thấy được rõ ràng hơn căn cứ nhập, tách vụ án dân sự. - Theo quy định tại Điều 188 BLTTDS 2015 thì đối với vụ án có nhiều người có cùng yêu cầu khởi kiện đối với cùng một cá nhân hoặc cùng một cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật (Ví dụ trong một vụ án dân sự về họ - hụi – biêu – phường khi chủ hụi vỡ hụi thì nhiều nhiều con hụi (người chơi) thường nộp đơn khởi kiện chủ hụi, trong trường hợp này Tòa án có thể gộp chung vào cùng một vụ án đề giải quyết) hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau thì Tòa án có thể nhập các yêu cầu của họ để giải quyết trong cùng một vụ án. Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định B là cha của con A và buộc B thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con A cho đến khi A đủ 18 tuổi.

- Theo Điều 200 BLTTDS 2015 các yêu cầu phản tố của bị đơn được giải quyết cùng với yêu cầu của nguyên đơn trong cùng một vụ án nếu thõa mãn một trong các dấu hiệu sau:  Yêu cầu phản tố bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Ví dụ yêu cầu bồi thường thiệt hại trong cùng một vụ tai nạn giao thông hoặc trong vụ gây thương tích mà chưa tới mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự mà cả hai bên cùng bị thiệt hại và bị đơn cũng yêu cầu Tòa án buộc nguyên đơn phải bồi thường).  Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Ví dụ A khởi kiện B yêu cầu thanh toán tiền thuê nhà, B phản tố yêu cầu Tòa án xác định căn nhà thuộc sở hữu của B  Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Ví dụ: A khởi kiện B đòi lại nhà cho B ở nhờ, B phản tố yêu cầu A thanh toán tiền sửa chữa, nâng cấp ngôi nhà. - Theo điều 201 BLTTDS 2015, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu độc lập khi thỏa mãn các điều kiện: (1) Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ; (2) Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết; (3) Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Ví dụ: A khởi kiện xin ly hôn với B và chia tài sản chung, C là chủ nợ chung của vợ chồng A và B, nên C là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong một vụ án ly hôn, Tòa án có thể chấp nhận yêu cầu độc lập của C để giải quyết trong cũng vụ án ly hôn. Việc tách vụ án chỉ thực hiện trong trường hợp vụ án có nhiều quan hệ pháp luật hoàn toàn khác nhau thì Tòa án không nên nhập vụ án. Ví dụ: yêu cầu tuyên bố một người đã chết và chia di sản thừa kế mà người đó để hoặc yêu cầu tuyên bố một người là mất tích và xin ly hôn với người đó.

CÂU HỎI ÔN TẬP Câu 1: Anh A và chị B đăng kí kết hôn năm 1996. Sau một thời gian chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn. Tháng 4/2016, anh A khởi kiện ra Tòa án yêu cầu xin ly hôn và giải quyết tranh chấp về tài sản chung giữa vợ và chồng. Về tài sản chung, 2 người có tạo lập được khối tài sản chung bao gồm 1 mảnh đất rộng 200 m2 ở huyện X tỉnh M và một ngôi nhà rộng 300m 2 ở huyện Y tỉnh M. Được biết hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016, hiện tại anh A đang ở quận 1 thành phố HCM còn chị B đang sống tại huyện X tỉnh M. Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp? Theo anh chị, Tòa án nào có thẩm quyền thụ lý giải quyết? Căn cứ pháp lý ? Câu 2: Năm 2002, ông bà M, N chết có để lại di sản là một căn nhà trên diện tích đất 400m2 tại phường K, quận D, thành phố H. Ông bà có 4 người con là A, B, C, D. Anh A và anh B hiện cư trú tại quận 1 thành phố H, anh C hiện cư trú tại Mỹ, anh D có hộ khẩu thường trú tại thành phố M thuộc tỉnh TG nhưng hiện đang quản lý, sử dụng nhà đất cha mẹ để lại và có đăng ký tạm trú tại phường K, quận D, thành phố H. Nay anh A cho rằng anh D có ý định chiếm toàn bộ nhà đất nên có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Hỏi: a. Theo anh chị, Tòa án cấp nào có thẩm quyền sơ thẩm vụ việc trên? b. Có ý kiến cho rằng anh A phải khởi kiện tại tòa án thành phố M thuộc tỉnh TG. Hãy cho biết ý kiến này đúng hay sai và giải thích tại sao?

CHƯƠNG 3 CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG, NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ 

Mục tiêu

Sinh viên nắm và phân biệt được các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bao gồm chủ thể tiến hành tố tụng (cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, người tiến hành tố tụng dân sự) và chủ thể tham gia tố tụng (đương sự, người đại diện của đương sự,người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch). Qua đó sinh viên nắm được quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia tố tụng để vận dụng vào các tình huống nhằm bảo vệ quyền lơi cho các đương sự khi tiến hành giải quyết vụ việc dân sự cụ thể. 

Nội dung giảng dạy

-

Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự

-

Người tiến hành tố tụng dân sự - Người tham gia tố tụng dân sự  Phương pháp giảng dạy Để giúp sinh viên hiểu rõ vấn đề giảng viên đi sử dụng phương pháp gọi tên vấn

đề, kết hợp với phương pháp thuyết giảng. Bên cạnh đó, giảng viên sử dụng phương pháp đặt các câu hỏi phát vấn để kiểm tra kiến thức cũ và đánh giá khả năng nắm bắt bài học của người học.  Tài liệu học tập 1.

Luật tố tụng dân sự 2015

2.

Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014

3.

Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014

4.

Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối

cao. Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2012.

5.

Thông tư 01/2016/TT-CA quy định việc tổ chức các tòa chuyên trách tại

tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. 6.

Quyết định 1718/QĐ-TANDTC năm 2017 quy định về tiêu chuẩn

chuyên môn nghiệp vụ, điều kiện và thủ tục, hồ sơ thi nâng ngạch thẩm tra viên, thư ký tòa án do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành.

3.1. CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG DÂN SỰ 3.1.1. Khái niệm cơ quan tiến hành tố tụng dân sự Chủ thể tiến hành tố tụng dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự bao gồm cơ quan tiến hành tố tụng dân sự (CQTHTTDS) và người tiến hành tố tụng dân sự (NTHTTDS) Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự là cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự10 Theo quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLTTDS 2015, thành phần các cơ quan tiến hành tố tụng dấn sự gồm có: Tòa án và Viện kiểm sát. Các cơ quan này tham gia tố tụng với mục đích, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau. 3.1.2. Tòa án nhân dân Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp11 (được thể hiện ngay trong khoản 1 Điều 102 chương VIII của Hiến pháp 2013). Trong TTDS Tòa án nhân danh nước CHXHCNVN xét xử các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ chứng cứ, tài liệu; căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Ngoài ra tòa án phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của những người tiến hành tố tụng gây ra 12. Theo quy định tại Điều 3 LTCTAND năm 2014, hiện nay hệ thống tổ chức của Tòa án gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân sấp huyện và Tòa án quân sự (các Toàn án quân sự không có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự). Nhiệm vụ, quyền hạn chung của các Tòa án được 10 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự, sdd, trang 85, NXB Công an nhân dân năm 2017 11 So với Hiến pháp năm 1992 thì ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân còn thực hiện quyền tư pháp là nhằm phân định quyền lực nhà nước theo hướng Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Đây là cơ sở pháp lý để giao cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên quan đến quyền con người, quyền của công dân, mà những loại việc đó trước đây do các cơ quan hành chính đang thực hiện…ví dụ như việc ra các quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh hoặc quyết định đưa người vào các cơ sở giáo giáo dục, trung tâm cai nghiện bắt buộc… 12 Xem Điều 28 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (LTNBTCNN) 2009. Ví dụ như hành vi Tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời….

Hình 1.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo cấp quy định

trong LTCTANND năm 2014 tại các điều 2, 20, 29, 37, 43…

-

Tòa án nhân dân tối cao, gồm có Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao; bộ máy giúp việc (các vụ và các đơn vị tương đương); và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Số lượng thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới mười ba người và không quá mười bảy người; gồm: Chánh án, các phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là thẩm phán TAND tối cao và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. -

Tòa án nhân dân cấp cao. Theo Nghị quyết số 957/NQ-UBTVQH13

ngày 28/5/2015 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Tòa án nhân dân cấp cao được thành lập tại thành phố Hà Nội (xét xử và giải quyết các vụ án từ Cao Bằng đến Hà Tĩnh); thành phố Đà Nẵng (bao gồm các tỉnh, thành phố miền Trung từ Quảng Bình trở vào); thành phố Hồ Chí Minh (các tỉnh, thành phố phía Nam gồm 23 tỉnh, thành phố từ Ninh Thuận trở vào.

Cơ cấu tổ chức của TAND tối cao gồm Uỷ ban Thẩm phán TAND tối cao (không thấp hơn 11 người và không quá 13 người); Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên. Trường hợp cần thiết, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và một bộ máy giúp việc. -

Tòa án nhân dân tỉnh: Ngoài thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

những bản án chưa có hiệu lực của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn có quyền kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì TAND cấp tỉnh có thẩm quyền kiến nghị tới Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án TAND tối cao xem xét, kháng nghị. Về cơ cấu tổ chức, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Uỷ ban Thẩm phán; Tòa hình sự; Tòa dân sự; Tòa hành chính; Tòa kinh tế; Tòa lao động; Tòa gia đình và người chưa thành niên; cùng bộ máy giúp việc. -

Tòa án nhân dân cấp huyện, có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia

đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính và bộ máy giúp việc. Căn cứ vào yêu cầu thực tế xét xử ở mỗi Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách. 3.1.3. Viện kiểm sát nhân dân Theo quy định tại Điều 2 quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát 2014, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án để bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Theo quy định của pháp luật hiện hành, VKSND không thực hành quyền công tố, không khởi tố vụ án dân sự, không chủ trì thực hiện bất kỳ một giai đoạn tố tụng dân sự nào như TAND (cụ thể: thụ lý vụ án, lập hồ sơ vụ án, thu thập chứng cứ, hòa giải, ra các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án, trưng cầu giám định…), mà chỉ kiểm sát hoạt động tư pháp

trong tố tụng dân sự, thể hiện rõ được cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp năm 2013 giữa TAND và VKSND Hệ thống tổ chức Viện kiểm sát gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự các cấp. Nhiệm vụ, quyền hạn chung của các Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng kiểm sát trong hoạt động tố tụng dân sự được quy định tại Điều 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014. Bao gồm các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: - Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; - Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc; - Thu thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp pháp luật quy định; - Tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật; - Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; - Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; - Kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng; - Thực hiên nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật. 3.2. NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG DÂN SỰ 3.2.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng dân sự Người tiến hành tố tụng dân sự là người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Những người tiến hành tố tụng đều là các công chức nhà nước trừ Hội thẩm nhân dân (có thể không phải là công chức nhà nước), được bổ nhiệm, thay mặt các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự và kiểm sát việc tuân theo pháp pháp luật trong quá trình tố tụng.

Thành phần những người tiến hành tố tụng gồm có Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên. 3.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng dân sự 3.2.2.1.

Chánh án Tòa án nhân dân

Chánh án Tòa án là người tiến hành tố tụng đứng đầu Tòa án, tổ chức và chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án, được bầu hoặc bổ nhiệm. Nhiệm vụ quyền hạn chung của chánh án được quy định tại các điều 27, 35, 42 và 47 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014. Nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của chánh án trong tố tụng dân sự do pháp luật tố tụng dân sự quy định cụ thể tại điều 47 BLTTDS 2015. Trong đó, nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất của chánh án Tòa án nhân dân là Tổ chức việc giải quyết các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án và quyết định phân công hoặc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án… Bên cạnh đó Chánh án tòa án nhân dân còn có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện quyền kháng nghị và kiến nghị, xử lý các hành vi cản trở tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật… Ngoài ra để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, pháp luật còn quy định khi Chánh án Tòa án vắng mặt thì một Phó Chánh án được Chánh án Tòa án ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ , quyền hạn của Chánh án Tòa án. Phó Chánh án Tòa án phải chịu trách nhiệm trước Chánh án Tòa án về nhiệm vụ được giao. 3.2.2.2.

Thẩm phán

Thẩm phán là người tiến hành tố tụng được Chủ tịch nước bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án và giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Thẩm phán là người thuộc biên chế của Tòa án. Thẩm phán tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Người được bổ nhiệm làm Thẩm phán phải có đủ điều kiện tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 67 LTCTAND 2014 như: Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực; Có trình độ cử nhân luật trở lên; Đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử; Có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật; Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Trong tố tụng dân sự, nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán được quy định tại Điều 48 BLTTDS 2015 như: Xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, thụ lý vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; Lập hồ sơ vụ việc dân sự; Tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ, tổ chức phiên tòa, phiên họp để giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; Quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời… 3.2.2.3.

Hội thẩm nhân dân

Hội thẩm nhân dân là người tiến hành tố tụng do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo nhiệm kỳ để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án, theo sự phân công của Chánh án Tòa án. Hội thẩm nhân dân không tham gia vào tất cả các vụ việc dân sụ và tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng, mà chỉ tham gia xét xử vụ án dân sự ở tại phiên tòa sơ thẩm. Người được bầu làm Hội thẩm nhân dân phải có đầy đủ các tiêu chuẩn về chính trị, pháp lý và sức khỏe theo quy định tại Điều 85 LTCTAND 2014 như: Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực; có kiến thức pháp luật; có hiểu biết xã hội; có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hội thẩm nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại Điều 49 BLTTDS 2015, bao gồm: -

Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa.

-

Đề nghị Chánh án Tòa án, Thẩm phán ra các quyết định cần thiết thuộc

thẩm quyền. -

Tham gia Hội đồng xét xử vụ án dân sự.

-

Tiến hành các hoạt động tố tụng và ngang quyền với Thẩm phán khi

biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. 3.2.2.4.

Thẩm tra viên

Thẩm tra viên là công chức chuyên môn của Tòa án đã làm thư ký Tòa án từ 5 năm trở lên, được đào tạo nghiệp vụ Thẩm tra viên và bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra viên. Thẩm tra viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công của Chánh án Tòa án. Thẩm tra viên có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây (Điều 50 BLTTDS 2015):

-

Thẩm tra hồ sơ vụ việc dân sự mà bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. -

Kết luận về việc thẩm tra và báo cáo kết quả thẩm tra, đề xuất phương án

giải quyết vụ việc dân sự với Chánh án Tòa án. -

Thu thập tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ việc dân sự theo quy

định của Bộ luật này. này.

-

3.2.2.5.

Hỗ trợ Thẩm phán thực hiện hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Thư kí Tòa án

Thư ký Tòa án là người tiến hành tố tụng dân sự với nhiệm vụ hỗ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa án. Tiêu chuẩn của Thư ký Tòa án được quy định tại Điều 92 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, theo đó Thư ký Tòa án là người có trình độ cử nhân luật trở lên được Tòa án tuyển dụng, được đào tạo nghiệp vụ Thư ký Tòa án và bổ nhiệm vào ngạch Thư ký Tòa án. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án được quy định tại Điều 51 Luật TTDS 2015 bao gồm: -

Chuẩn bị các công tác nghiệp vụ cần thiết trước khi khai mạc phiên tòa.

-

Phổ biến nội quy phiên tòa.

-

Kiểm tra và báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được

triệu tập đến phiên tòa. -

Ghi biên bản phiên tòa, phiên họp, biên bản lấy lời khai của người tham

gia tố tụng. 3.2.2.6.

Viện trưởng Viện kiểm sát

Viện trưởng Viện kiểm sát là người tiến hành tố tụng đứng đầu Viện kiểm sát nhân dân, tổ chức, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân. Theo quy định tại Điều 57 BLTTDS 2015 Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự; Quyết định phân công, thay đổi Kiểm sát viên Kiểm tra viên; Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này; Yêu cầu, kiến nghị theo quy định của Bộ luật này; Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật này.

Khi Viện trưởng vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, trừ quyền quyết định kháng nghị. Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được ủy nhiệm. 3.2.2.7.

Kiểm sát viên Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng được Viện trưởng Viện kiếm sát nhân

dân tối cao bổ nhiệm để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong tố tụng dân sự, Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự theo sự phân công và dưới sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát. Người được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên phải có đầy đủ các tiêu chuẩn quy định tại Điều 75 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 như: Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; có trình độ cử nhân luật trở lên; đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát; có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của Luật này; có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong tố tụng dân sự, Kiểm sát viên có nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 58 BLTTDS 2015: Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự; nghiên cứu hồ sơ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; thu thập tài liệu, chứng cứ; tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc; Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; Kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng; Đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật. 3.2.2.8.

Kiểm tra viên Kiểm tra viên là người được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ

nhiệm để giúp Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng Viện

kiểm sát nhân dân. Cụ thể, Kiểm tra viên có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây (Điều 59 BLTTDS 2015): -

Nghiên cứu hồ sơ vụ việc, báo cáo kết quả với Kiểm sát viên.

-

Lập hồ sơ kiểm sát vụ việc dân sự theo phân công của Kiểm sát viên

hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát. sự.

-

Giúp Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân

3.2.3. Việc thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự 3.2.3.1.

Căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng Những người tiến hành tố tụng dân sự phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị

thay đổi trong trường hợp có thể dẫn đến sự không vô tư, khách quan của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây: Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự; họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ việc đó; có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Chẳng hạn, người tiến hành tố tụng có quan hệ tình cảm, quan hệ thông gia, quan hệ công tác, quan hệ kinh tế… với đương sự và có căn cứ rõ ràng để khẳng đinh là họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ13.

Ví dụ: Hội thẩm nhân dân là anh em kết nghĩa của nguyên đơn; Thẩm phán là con rể của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Thủ trưởng cơ quan nơi vợ của Thẩm phán làm việc,... mà có căn cứ rõ ràng chứng minh là trong cuộc sống giữa họ có mối quan hệ tình cảm thân thiết với nhau, có mối quan hệ về kinh tế,...

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải được thay đổi trong những trường hợp sau (Điều 53 BLTTDS 2015): - Thuộc một trong những trường hợp phải thay đổi người tiến hành tố tụng (Điều 52); 13 Xem thêm tại khoản 3, Điều 13 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự”

- Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau; trong trường hợp này, chỉ có một người được tiến hành tố tụng. - Họ đã tham gia giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ việc dân sự đó và đã ra bản án sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, quyết định giải quyết việc dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao thì vẫn được tham gia giải quyết vụ việc đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Ví dụ: Thẩm phán A đã ra bản án sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự, sau đó đương sự kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm, trả lại hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại. Trường hợp này khi sơ thâm lại thì Thẩm phán A sẽ không được phân công giải quyết lại vụ án đó ttheo thủ tục sơ thẩm, nếu được phân công thì Thẩm phán A cũng phải từ chối hoặc bị thay đổi. - Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ việc đó với tư cách là Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên. Ví dụ: Bà B là thư kí tòa án được phân công làm thư kí trong một vụ án sơ thẩm, sau đó bản án bị kháng cáo lên Tòa án phúc thẩm, Tòa phúc thẩm tuyên hủy, trả lại hồ sơ cho tòa án cấp sơ thẩm để điều tra giải quyết sơ thẩm lại. Khi xét sơ thẩm lại, bà B lúc này đã được bổ nhiệm làm thẩm phán tại Tòa án sơ thẩm. Như vậy bà B không được phân công giải quyết lại vụ án này theo thủ tục sơ thẩm nữa vì bà đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thư ký tòa án.

Đối với thư ký Tòa án, thẩm tra viên phải thay đổi ngoài trường hơp quy định chung tại điều 52 BLTTDS thì phải thay đổi trong trường hợp: - Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ việc đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; - Là người thân thích với một trong những người tiến hành tố tụng khác trong vụ việc đó. Đối với Kiểm sát viên, kiểm tra viên phải thay đổi trong những trường hợp sau: - Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 52 của Bộ luật này.

- Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ việc đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên. 3.2.3.2.

Thủ tục thay đổi người tiến hành tố tụng

Đối với vụ án dân sự, thẩm quyền và thủ tục thay đổi người tiến hành tố tụng được thực hiện ở trước phiên tòa và tại phiên tòa có sự khác nhau ở chỗ: việc giải quyết vụ án dân sự trước phiên tòa do Thẩm phán thực hiện, còn ở tại phiên tòa do Hội đồng xét xử thực hiện. Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án trước khi mở phiên tòa do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án thì Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp quyết định (Điều 56 BLTTDS 2015). Trước khi mở phiên tòa, việc thay đổi Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.Việc thay đổi Kiểm tra viên do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định (Điều 62 BLTTDS 2015). Việc thay đôỉ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi.Việc thay đổi người tiến hành tố tụng phải được thực hiện bằng văn bản để bảo đảm tính minh bạch của các hoạt động tố tụng dân sự. Đối với việc dân sự, thủ tục thay đổi những người tiến hành tố tụng trước phiên họp và tại phiên họp cũng được thực hiện như việc thay đổi trước và tại phiên tòa, nhưng về thẩm quyền có sự khác nhau (Điều 368 BLTTDS 2015): - Thứ nhất, trường hợp việc dân sự do một Thẩm phán giải quyết thì việc thay đổi Thẩm phán, Thư ký trước phiên họp và tại phiên họp do Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp quyết định. Nếu Việc dân sự do Hội đồng giải quyết thì tại phiên họp việc thay đổi thành viên do Hội đồng giải quyết việc dân sự giải quyết. - Thứ hai, Trước khi mở phiên họp, việc thay đổi Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định.Tại phiên họp, việc thay đổi Kiểm sát viên do Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự quyết định. Trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên thì Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự ra quyết định hoãn phiên họp và thông báo cho Viện kiểm sát.

3.3.

NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ

3.3.1. Khái niệm người tham gia tố tụng dân sự Người tham gia tố tụng dân sự là người tham gia vào việc giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác hoặc hỗ trợ Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự14. Theo quy định của BLTTDS 2015 từ Điều 68 đến Điều 90 những người tham gia tố tụng dân sự gồm có: đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ịch hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch, người giám định. Trong mỗi vụ việc dân sự, số lượng, thành phần những người tham gia tố tụng dân sự có thể khác nhau. Những người thma gia tố tụng có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức đáp ứng được các điều kiện do pháp luật tố tụng dân sự quy định. 3.3.2. Đương sự trong vụ việc dân sự 3.3.2.1.

Khái niệm đương sự trong vụ việc dân sự Trong các vụ việc dân sự, có những người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình, cũng có thể một số người lại tham gia tố tụng để bảo vệ lơi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước trong lĩnh vực được giao phụ trách.Những trường hợp này, những cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đều được xem là đương sự. Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự15. Ví dụ: Cơ quan Tài nguyên và Môi trường khởi kiện vụ án dan sự để yêu cầu Tòa án nhân dân buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi gây ô nhiễm môi tường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố gây ô nhiễm môi trường công cộng. Trường hợp này cơ quan Tài nguyên và Môi trường là đương sự trong vụ án dân sự và tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn để bảo vệ lợi ích công cộng Các đương sự ở đây có thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự, người yêu cầu, người bị yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự. 14 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự, sdd, trang 106, NXB Công an nhân dân năm 2017 15 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự, sdd, trang 107, NXB Công an nhân dân năm 2017

- Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích công cộng, lơi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực phụ trách hoặc được người khác khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Ví dụ: Trường hợp công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở khởi kiện vụ án tranh chấp về lao động để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tập thể người lao động; uỷ ban về dân số – gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện trong các vụ kiện về cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con hoặc yêu cầu giải quyết các việc về hôn nhân gia đình như huỷ việc kết hôn trái pháp luật, chấm dứt việc nuôi con nuôi hạn chế quyền của mẹ, cha đối với con chưa thành niên. Các chủ thể này không tham gia tố tụng dân sự với tư cách nguyên đơn mà chỉ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật của đương sự. - Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định pháp luật khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm. Họ buộc phải tham gia vào quá trình tố tụng do nguyên đơn khởi kiện. - Người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Người có quyền ợi nghĩa vụ liên quan bao gồm 2 loại: lợi

 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người có

ích pháp lý độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn, bị đơn nên yêu cầu của họ có thể chống lại cả nguyên đơn, bị đơn. Về bản chất, yêu cầu độc lập cũng là yêu cầu khởi kiện nên yêu cầu này có thể được khởi kiện bằng vụ án độc lập. Thủ tục yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của các đương sự được thực hiện theo quy định của BLTTDS 2015 về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn, và khi họ đưa ra yêu cầu sẽ phải nộp tiền tạm ứng án phí16 Ví dụ: Anh A xin ly hôn chị B. Trong quá trình chung sống anh A và chị B có một khoản vay tại Ngân hàng X để thành lập công ty, khi tòa án thụ lý và giải quyết vụ án ly hôn anh A và chị B cũng không đề cập giải quyết khoản vay này trong vụ án ly hôn. Ngân hàng X thấy việc ly hôn của anh A và chị B có thể có việc chia tài sản 16 Xem thêm khoản 1, Điều 25, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

chung của vợ chồng, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ nên có đơn yêu cầu vợ chồng anh A trả nợ ngay và xác định một số tài sản bảo đảm trả nợ. Trường hợp này yêu cầu của Ngân hàng X là yêu cầu độc lập và Ngân hàng phải làm đơn, nộp tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật.  Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng phụ thuộc vào lợi ích pháp lý của nguyên đơn hoặc bị đơn. Ví dụ: A là chủ phương tiện thuê B lái xe khách gây tai nạn cho người đi đường, trong trường hợp này theo quy định tại khoản 3, Điều 584 BLDS năm 2015 và theo quy định tại điểm đ khoản 1 mục III Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao thì A phải có trách nhiệm trong việc bồi thường thiệt hại do người lái xe gây ra cho người đi đường. Trong vụ án này A sẽ tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập, phụ thuộc vào bị đơn. - Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu trong việc dân sự cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Ví dụ: Người có quyền và nghĩa vụ liên quan yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích, đi khỏi nơi cư trú, đã chết trong việc dân sự. Tuy nhiên, yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ, của người khác, hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ. - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự là ngườitham gia tố tụng vào việc để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trả lời về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Họ có thể tự chủ động tham gia tố tụng việc dân sự hoặc theo yêu cầu của đương sự khác hoặc theo yêu cầu của Tòa án. Trước đây, Điều 56 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung 2011 chỉ quy định đương sự gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự. Hiện nay, tại Điều 68 BLTTDS 2015 mở rộng quy định đương sự bao gồm: bị đơn, nguyên đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự, người yêu cầu và người có liên quan trong việc dân sự, nhằm bảo đảm cho họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.

3.3.2.2.

Năng lực tố tụng dân sự của đương sự (điều 69 BLTTDS 2015)  Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự là khả năng pháp luật quy định cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức có các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nội dung của năng lực pháp luật TTDS của đương sự bao gồm toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự mà đương sự có được theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân xuất hiện khi cá nhân sinh ra và mất đi khi chết, năng lực pháp luật tố tụng dân sự của tổ chức cũng xuất hiện khi tổ chức được thành lập và mất đi khi chấm dứt hoạt động.  Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự là cá nhân được xác định bởi khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ và bởi tính chất, yêu cầu của việc tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Cá nhân chỉ được coi là có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ khi đã từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, không bị mất năng lực hành vi dân sự, trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, ngoài việc trừ người mất năng lực hành vi dân sự, nếu trong trường hợp pháp luật có quy định khác, thì người chưa đủ mười tám tuổi vẫn có thể có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc ngược lại người từ đủ mười tám tuổi trở lên vẫn có thể không có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự17: - Về trường hợp người chưa đủ mười tám tuổi nhưng có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Theo quy đinh của BLTTDS 2015 đương sự là người từ đủ 15 tuối đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên 17 Xem thêm Điều 16, Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự

quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó, họ được coi là có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ trong phạm vi nhất định. - Về trường hợp người từ đủ mười tám tuổi trở lên nhưng không có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Theo quy định tại Điều 85 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thì cha, mẹ có thể bị Tòa án ra quyết định không cho trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật của con từ 1 đến 5 năm ; do đó, trong thời hạn bị Tòa án cấm làm người đại diện theo pháp luật của con, thì cha mẹ không được tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người đại diện theo pháp luật cho con trong vụ việc dân sự. Đương sự à người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Đối với đương sự là người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do đại diện hợp pháp của họ thực hiện Trường hợp người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì năng lực hành vi tố tụng dân sự của họ được xác định theo quyết định của Tòa án. Hiện nay việc hiểu và áp dụng những trường hợp như thế nào mới được xem là người khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi vẫn chưa thực sự cụ thể, gây khó khăn trong việc xác định năng lực chủ thể của đương sự, khó khăn trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khi tham gia tố tụng. 3.3.2.3.

Quyền và nghĩa vụ của đương sự (Điều 70 BLTTDS 2015)

Các đương sự có các quyền và nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng, được tự mình hoặc ủy quyền cho người khác đại diện thực hện để bảo vệ quyền ợi của minh. Các quyền tố tụng của tất cả các đương sự bao gồm 3 nhóm chính: - Các quyền thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự, như: quyền giữ nguyên, thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu; quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành; quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án.; quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm nảm ám, quyết đinh có hiệu lực của Tòa án.

- Các quyền của đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chứng minh, như quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình; quyền đề nghị TA xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ… - Các quyền của đương sự nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả tranh tụng như quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập (trừ khoản 2 Điều 109); quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; quyền tham gia phiên tòa, phiên họp; đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng… Ngoài ra, đương sự còn có các quyền đề nghị Tòa án quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; nhận thông báo hợp lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định… Các nghĩa vụ của đương sự bao gồm: nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án; tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa; nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và chi phí theo quy định của pháp luật… Ngoài các quyền và nghĩa vụ tố tụng nêu trên của đương sự, thì nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan còn có các quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng khác phụ thuộc vào tư cách và vị trí tham gia tố tụng của từng chủ thể. Ví dụ như nguyên đơn có thể: Thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện; rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập (Điều 71 BLTTDS 2015). Bị đơn có quyền phản tố đối với nguyên đơn; đưa ra yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và yêu cầu độc lappj này có liên quan đến vụ án (Điều 72 BLTTDS 2015)…

3.3.2.4.

Kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng (Điều 74 BLTTDS 2015)

Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng. Các quyền, nghĩa vụ về nhân thân ví dụ: quyền ly hôn, quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm, uy tín… hoặc quyền, nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân như: yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm uy tín; yêu cầu cấp dưỡng thì không được chuyển giao cho người khác và do đó không được thừa kế. Trong trường hợp đương sự chết mà có nhiều người thừa kế thì về nguyên tắc, tất cả những người thừa kế tham gia tố tụng, hoặc họ phải thỏa thuận với nhau cử ra một người thừa kế đại diện cho họ tham gia tố tụng, hoặc thỏa thuận cùng ủy quyền cho một người khác đaị diện tham gia tố tụng. Trường họp đương sự chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của đương sự không được thừa kế thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc việc dân sự Trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể, hợp nhất, sát nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự được xác định tùy thuộc vào loại hình cơ quan, tổ chức18 3.3.3. Người đại diện của đương sự (Điều 85 BLTTDS 2015) 3.3.3.1.

Khái niệm người đại diện của đương sự

Người đại diện của đương sự thường là các cá nhân, bởi lẽ các cá nhân mới tự mình chủ động thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của các đương sự. Tuy nhiên pháp luật TTDS còn quy định trường hợp ngoại lệ, đó là cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác cũng là người đại diện cho đương sự. Ví dụ như cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phũ nữ Việt Nam, tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,… Người đại diện là người tham gia tố tụng thay mặt đương sự thực hiện các quyền , nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự trước tòa án.

18 Xem khoản 2,3,4,5 Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

3.3.3.2.

Phân loại người đại diện

Theo quy định của BLTTDS, có hai loại người đại diện của đương sự trong TTDS: người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền

- Người đại diện theo pháp luật là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo quy định của pháp luật. Theo đó, những người đại diện theo pháp luật của đương sự bao gồm: cha, mẹ của con chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ; người đại diện cơ quan, tổ chức; tổ chức đại diện tập thể người lao động; chủ hộ gia đình và cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Bên cạnh đó, trong một số trượng hợp, khi tiến hành tố tụng, đương sự sẽ được Tòa án chỉ định người đại diện. Người đại diện do Tòa án chỉ định là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo sự chỉ định của Tòa án. Tòa án chỉ định người đại diện trong các trường hợp quy định tại Điều 88 BLTTDS 2015 áp dụng đối với trường hợp đương sự chưa thành niên, người bị mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khắn trong nhận thức, làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc trường hợp không được đại diện (Điều 87 BLTTDS 2015). Tuy nhiên theo tác giả, người bị hạn chế năng lực hành vi, người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi vẫn có thể có năng lực hành vi tố tụng dân sự tùy thuộc theo quyết định của Tòa án, nên không phải trong mọi trường hợp họ đều phải có người đại diện tham gia tố tụng theo chỉ định của Tòa án. - Người đại diện theo ủy quyền là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo sự ủy quyền của đương sự. Đương sự có thể ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng trong các loại việc nhưng đối với việc li hôn thì đương sự không được ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng, trừ trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì họ là người đại diện. Tuy nhiên, để đảm bảo cho việc tham gia tố tụng được khách quan thì trong một số trường hợp, đương sự không được làm người đại diện theo pháp luật cũng như theo ủy quyền cho đương sự như:



Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người được đại

diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện. ví dụ: A là nguyên đơn trong vụ án ly hôn với B, trong thời kì hôn nhân A và B có vay của C số tiền là 500 triệu đồng và tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan độc lập. Trong trường hợp này C không được làm người đại diện tố tụng cho A và B và ngược lại A và B cũng không được làm người đại diện cho C vì quyền và lợi ích của họ đối lập nhau. 

Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho

một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ việc. Ví dụ trong một vụ án dân sự mà người đại diện vừa đại diện cho nguyên đơn vừa đại diện cho bị đơn hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan độc lập. 

Cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an không

được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật. 3.3.3.3.

Quyền và nghĩa vụ của người đại diện (Điều 86 BLTTDS 2015)

Đối với người đại diện theo pháp luật và người đại diện do Tòa án chỉ định trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự trong phạm vi mà mình đại diện. Trường hợp người được đại diện là người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự (người chưa đủ 6 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự) do bản thân không thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ tố tụng như những chủ thể khác, nên trong trường hợp này người đại diện theo pháp luật và theo chỉ định được thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ tố tụng đối với đương sự mà họ đại diện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đối với người đại diện theo ủy quyền của đương sự tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho đương sự là người có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Vì vậy, người đại diện theo ủy quyền của đương sự chỉ thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự chấm dứt việc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự (khoản 3 và 4, Điều 140 BLDS 2015).

3.3.4. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự 3.3.4.1.

Khái niệm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng có đủ các điều kiện do pháp luật quy định được đương sự yêu cầu (nhờ) tham gia tố tụng để bả vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Trước đây, theo quy định tại khoản 2 Điều 63 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung 2011 thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có sự chấp nhận (đồng ý) của Tòa án. Nói cách khác, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ tiến hành khi có sự chấp thuận của Tòa án, gây cản trở cho hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự do phụ thuộc vào ý chí của Tòa án, đồng thời vi phạm nguyên tắt tố tụng cơ bản “quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” tại Điều 4 BLTTDS 2015. Khắc phục những hạn chế này, BLTTDS 2015, cụ thể tại khoản 2, Điều 75 BLTTDS 2015 đã ghi nhận việc đương sự có quyền yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và đượ'c Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc “làm thủ tục đăng ký” thay cho “chấp thuận”, giúp cho hoạt động của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện dễ dàng hơn, chỉ cần tuân theo điều kiện do luật định thì có thể trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Điều kiện để một người trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi có yêu cầu của đương sự: - Thứ nhất, đó là luật sư; trợ giúp viên pháp lý 19 hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý20, đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động và công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không có án tích hoặc đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; không phải là cán bộ, 19 Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật (Điều 2, Luật trợ giúp viên pháp lý 2017). Người được trợ giúp pháp lý bao gồm: Người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính (Điều 7, Luật trợ giúp viên pháp lý 2017). Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý (Điều 10, Luật trợ giúp viên pháp lý 2017). 20 Người tham gia trợ giúp pháp lý bao gồm: Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; cộng tác viên trợ giúp pháp lý. (Điều 17 Luật trợ giúp viên pháp lý 2017)

công chức trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát và công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an. - Thứ hai, trường hợp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhiều đương sự trong cùng một vụ án, thì quyền và lợi ích hợp pháp của những đương sự được bảo vệ đó không được đối lập nhau. - Thứ ba, người đó đã làm thủ tục đăng ký ở Tòa án. Khi đăng ký, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải xuất trình cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu để chứng minh về việc đủ tư cách tham gia tố tụng. Chẳng hạn như đối với luật sư, trợ giúp viên pháp lý, người tham gia trợ giúp pháp lý thì phải xuất trình cho Tòa án giấy giới thiệu của văn phòng luật sư, văn phòng trợ giúp pháp lý nơi họ là thành viên hoặc ký hợp đồng làm việc cử họ tham gia tố tụng tại Tòa án và có thẻ luật sư, thẻ trợ giúp viên pháp lý… 3.3.4.2.

Quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng một cách độc lập. Các quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bao gồm: - Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự. - Thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trừ tài liệu, chứng cứ quy định liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu chính đáng của đương sự (khoản 2 Điều 109 của BLTTDS). - Tham gia việc hòa giải, phiên họp, phiên tòa hoặc trường hợp không tham gia thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án xem xét. - Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này. - Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; trường hợp được đương sự ủy quyền thì thay mặt đương sự nhận giấy

tờ, văn bản tố tụng mà Tòa án tống đạt hoặc thông báo và có trách nhiệm chuyển cho đương sự. - Các quyền, nghĩa vụ quy định tại các khoản 1, 6, 16, 17, 18, 19 và 20 Điều 70 của BLTTDS 2015 về quyền, nghĩa vụ của đương sự. 3.3.5. Người làm chứng trong tố tụng dân sự (Điều 77 BLTTDS 2015) 3.3.5.1.

Khái niệm người làm chứng

Người làm chứng là người tham gia tố tụng để làm rõ những tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự do biết được các tình tiết, sự kiện đó. Người làm chứng được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự hoặc khi Tòa án xét thấy cần thiết. Những người làm chứng phải là người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án, ví dụ: Người đã chứng kiến việc ký kết hợp đồng giữa các đương sự đang có tranh chấp hợp đồng, hoặc chứng kiến tai nạn giao thông xảy ra dẫn đến việc bị đơn gây thiệt hại cho nguyên đơn. .Tuy nhiên theo quy định pháp luật, đối với những người mất năng lực hành vi dân sự không thể là người làm chứng bởi bản thân họ không có khả năng nhận thức được hành vi của mình. Tuy nhiên, pháp luật không cấm người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi làm người làm chứng. 3.3.5.2.

Quyền và nghĩa vụ của người làm chứng

Lời khai của người làm chứng thường chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố chủ quan như khả năng nhớ, nhận thức và trình bày của mỗi người, lợi ích, tâm lý, thái độ, định kiến của họ đối với vụ việc… Do đó pháp luật quy định nghĩa vụ của người làm chứng để đảm bảo tính khách quan, trung thực, chính xác như: - Cung cấp toàn bộ thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình có được có liên quan đến việc giải quyết vụ việc. - Khai báo trung thực những tình tiết mà mình biết được có liên quan đến việc giải quyết vụ việc. - Phải có mặt tại Tòa án, phiên tòa, phiên họp theo giấy triệu tập của Tòa án. Trường hợp người làm chứng không đến phiên tòa, phiên họp mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ cản trở việc xét xử, giải quyết thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Hội đồng giải quyết việc dân sự có thể ra quyết định dẫn giải người

làm chứng đến phiên tòa, phiên họp, trừ trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên21. - Phải cam đoan trước Tòa án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, trừ trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên Bên cạnh nghĩa vụ, để tạo điều kiện cho người làm chứng tham gia tố tụng, Bộ luật TTDS 2015 quy định các quyền sau đối với người làm chứng như: - Được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc việc khai báo đó có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan hệ thân thích với mình. - Được nghỉ việc trong thời gian Tòa án triệu tập hoặc lấy lời khai, nếu làm việc trong cơ quan, tổ chức. - Được thanh toán các khoản chi phí có liên quan theo quy định của pháp luật22. - Yêu cầu Tòa án đã triệu tập, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng; khiếu nại hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng. Đặc biệt, người làm chứng phải bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do khai báo sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác. Người làm chứng khai báo gian dối, từ chối khai báo, cung cấp tại liệu sai sự thật thì có thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành chính hoặc khởi tố vụ án hình sự theo Điều 489 BLTTDS 2015. Tuy nhiên, biện pháp chế tài đối với họ cụ thể ra sao thì chưa được quy định cụ thể, khi áp dụng các cơ quan tố tụng còn bị động và lúng túng23. 3.3.6. Người giám định trong tố tụng dân sự 3.3.6.1.

Khái niệm người giám định trong tố tụng dân sự

Trong nhiều trường hợp, việc giải quyết vụ việc dân sự đòi hỏi phải có ý kiến kết luận của nhà chuyên môn đề giúp Tòa án xác định các tình tiết của vụ việc để đưa đến quyết định đúng đắn, những người này được gọi là người giám định. 21 Xem thêm Điều 490 về “Xử lý hành vi cố ý không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án” Bộ luật tố tụng dân sự 2015. 22 Xem thêm Điều 167 về “Chi phí cho người làm chứng” Bộ luật tố tụng dân sự 2015. 23 Trong khi đó trong lĩnh vực tố tụng hình sự đã có quy định khá cụ thể tại Điều Điều 382. Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối và Điều 383. Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, định giá tài sản hoặc từ chối cung cấp tài liệu BLTTHS 2015 và Điều 14, Nghị định 167/2013 quy định nếu người làm chứng trong hình sự, vi phạm nghĩa vụ có thể bị phạt từ 1 đến 2 triệu đồng.

Ví dụ: Trong một vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra, cần phải có kết luận của giám định viên xây dựng về nguyên nhân gây ra thiệt hại, mức độ thiệt hại. Hay trong việc xác định một người mất năng lực hành vi dân sự phải trưng cầu giám định tâm thần để xác định… Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định mà Tòa án trưng cầu giám định hoặc được đương sự yêu cầu giám định24 3.3.6.2.

Quyền và nghĩa vụ của người giám định (Điều 80 BLTTDS 2015) Để tạo điều kiện thuận lợi cho người giám định thực hiện nhiệm vụ, pháp luật

quy định người giám định có các quyền: Được đọc tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến đối tượng giám định; yêu cầu Tòa án cung cấp tài liệu cần thiết cho việc giám định; đặt câu hỏi đối với người tham gia tố tụng về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định; Được thanh toán các chi phí có liên quan theo quy định của pháp luật25 Pháp luật cũng quy định chặt chẽ nghĩa vụ của người giám định nhằm bảo đảm ch việc giám định được tiến hành khách quan, trung thực, đúng trình tự, thủ tục, bao gồm: - Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trình bày, giải thích, trả lời những vấn đề liên quan đến việc giám định và kết luận giám định một cách trung thực, có căn cứ, khách quan; - Phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án về việc không thể giám định được do việc cần giám định vượt quá khả năng chuyên môn, tài liệu cung cấp phục vụ cho việc giám định không đủ hoặc không sử dụng được - Phải bảo quản tài liệu đã nhận và gửi trả lại Tòa án cùng với kết luận giám định hoặc cùng với thông báo về việc không thể giám định được; - Không được tự mình thu thập tài liệu để tiến hành giám định, tiếp xúc với người tham gia tố tụng khác nếu việc tiếp xúc đó làm ảnh hưởng đến kết quả giám định; không được tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết khi tiến hành giám định hoặc

24 Xem thêm Luật Giám định tư pháp năm 2012. Hiện nay người giám định tư pháp bao gồm người giám định viên tư pháp và người giám định tư pháp theo vụ việc. 25 Xem thêm Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13 về “Chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng” của Uỷ ban thường vụ quốc hội năm 2012.

thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ Thẩm phán quyết định trưng cầu giám định; - Phải cam đoan trước Tòa án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Người giám định từ chối kết kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu mà không có lý do chính đáng, kết luận giám định sai sự thật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật26 3.3.6.3.

Những truường hợp phải thay đổi người giám định

Đề đảm bảo tính khách quan, pháp luật quy định người giám định phải từ chối hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau: sự. vụ.

-

Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương

-

Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm

-

Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch trong cùng vụ án đó; -

Họ đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên. Việc thay đổi người giám định trước khi mở phiên tòa và phiên họp do Chánh án Tòa án quyết định. Tại phiên tòa, phiên họp, việc thay đổi người giám định do Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Hội đồng giải quyết việc dân sự quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi. 3.3.7. Người phiên dịch (Điều 81 BLTTDS 2015) 3.3.7.1.

Khái niệm người phiên dịch

Người phiên dịch là người tham gia tố tụng dịch ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại Những người biết được các ngôn ngữ khác có thể dịch ra tiếng Việt và ngược lại đều có thể trở thành người phiên dịch. Người biết chữ của người khuyết tật nhìn hoặc biết nghe, nói bằng ngôn ngữ, ký hiệu của người khuyết tật nghe, nói cũng được coi là người phiên dịch.

26 Xem thêm Điều 382, 383 Bộ luật Hình sự 2015.

Trường hợp chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của người khuyết tật nhìn hoặc người khuyết tật nghe, nói biết được chữ, ngôn ngữ, ký hiệu của người khuyết tật thì người đại diện hoặc người thân thích có thể được Tòa án chấp nhận làm người phiên dịch cho người khuyết tật đó. 3.3.7.2.

Quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch

Người phiên dịch có các nghĩa vụ sau: Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; phải phiên dịch trung thực, khách quan, đúng nghĩa; không được tiếp xúc với người tham gia tố tụng khác nếu việc tiếp xúc đó làm ảnh hưởng đến tính trung thực, khách quan, đúng nghĩa khi phiên dịch; phải cam đoan trước Tòa án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Ngoài ra để tạo điều kiện cho người phiên dịch làm nhiệm vụ, pháp luật quy định người phiên dịch có các quyền sau: Đề nghị người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng giải thích thêm nội dung cần phiên dịch; được thanh toán các chi phí có liên quan theo quy định của pháp luật27 Người phiên dịch cố ý dịch sai sự thật thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự 28, hoặc người phiên dịch được Tòa án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Căn cứ thay đổi người phiên dịch và thủ tục thay đổi người phiên được thực hiện theo Điều 83 và 84 BLTTDS 2015 và về cơ bản việc thay đổi người phiên dịch được thực hiện như người giám định.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 3 Câu 1: Phân biệt người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Câu 2: Nhận định sau đúng hay sai? Giải thích, nêu căn cứ pháp lý. a. nước

Những người tiến hành tố tụng đều là công chức thuộc biên chế nhà

b. Trong tố tụng dân sự đương sự được ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng

27 Xem các Điều 51 – 54 Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13 về “Chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng” của Uỷ ban thường vụ quốc hội năm 2012. 28 Xem thêm Điều 382 Bộ luật hình sự 2015

c. Người có quyền và lợi ích bị xâm hại được ủy quyền cho người khác khởi kiện vụ án dân sự. d. Thủ tục thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên họp giải quyết việc dân sự do Hội đồng giải quyết việc dân sự quyết định.

luật

e.

Cha, mẹ của đương sự không được làm người phiên dịch.

f.

Hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp

tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn. Câu 3: Ông A vay của B 300 triệu đồng, ông A chết để lại di sản thừa kế là 1 ngôi nhà, ngôi nhà này đang thế chấp đề vay ngân hàng 200 triệu đồng. Ông A có 2 người con là C và D. C khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế. Khi biết tin này ông B đã làm đơn khởi kiện yêu cầu những người thực hiện thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Xác định tư cách tham gia tố tụng của những người trong tình huống trên Câu 4: A kết hôn hợp pháp với B sinh được một người con chung là C, sau khi ly hôn Tòa án giao cho B nuôi con là C, còn A thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho C. A không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho C tổng cộng 12 tháng, nên chị B đã làm đơn yêu cầu anh A phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho C. Được biết, anh A đã kết hôn với D và tạo lập được khối tài sản chung là 500 triệu đồng và cho F vay 300 triệu đồng góp vốn vào công ty của Q. Hãy xác định tư cách tham gia tố tụng của những người nói trên.

Chương 4 CHỨNG MINH VÀ CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 

Mục tiêu

Sau khi tìm hiểu về nội dung chương 4: Chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự, sinh viên có khả năng hiểu và nắm được những nội dung căn bản: - Thứ nhất: Hiểu được thế nào là chứng minh trong tố tụng dân sự, ý nghĩa của hoạt động này. Biết được ai là người phải có nghĩa vụ chứng minh, và đối với từng quan hệ pháp luật và từng vụ việc dân sự thì cần phải chứng minh những gì? Trường hợp nào thì những tình tiết, sự kiện không cần chứng minh. Đặc biệt sinh viên nắm được và vận dụng được các hoạt động chứng minh cụ thể trong một vụ việc dân sự.

- Thứ hai, Nắm được khái niệm chứng cứ, những thuộc tính cơ bản của chứng cứ. Biết được chứng cứ bao gồm những loại nào và được thu thập từ nguồn nào. Từ đó biết cách khai thác chứng cứ triệt để trong những tình huống thực tế đối vời từng vụ việc khác nhau và từng mục đích tham gia tố tụng khác nhau. - Thứ ba, Vận dụng được các quy định liên quan đến hoạt động chứng minh và thu thập chứng cứ áp dụng vào tình tuống thực tế.  Nội dung giảng dạy - Chứng minh trong tố tụng dân sự + Khái niệm và ý nghĩa của chứng minh trong tố tụng dân sự + Chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự + Đối tượng chứng minh trong vụ việc dân sự + Những tình tiết, sự kiện không cần chứng minh + Các hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự - Chứng cứ trong tố tụng dân sự + Khái niệm và thuộc tính của chứng cứ + Phân loại chứng cứ

+

Nguồn

chứng cứ 

Phương pháp giảng dạy

Để giúp sinh viên hiểu rõ vấn đề giảng viên đi sử dụng phương pháp gọi tên vấn đề, kết hợp với phương pháp thuyết giảng. Bên cạnh đó, giảng viên sử dụng phương pháp đặt các câu hỏi phát vấn để kiểm tra kiến thức cũ và đánh giá khả năng nắm bắt bài học của người học. 

Tài liệu học tập

-

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

-

Luật giám định tư pháp số 13/2012/QH13

-

Luật tương trợ tư pháp 2007

-

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010

-

Nghị quyết Số: 04/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định

về “chứng minh và chứng cứ” của bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự. Ngày 03 tháng 12 năm 2012

-

Thông tư liên tịch số: 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC

hướng dẫn thi hành điều 92 bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản. -

Thông tư liên tịch số: 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC quy định về

trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự ngày 19 tháng 10 năm 2016

4.1.

CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

4.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của chứng minh trong tố tụng dân sự 4.1.1.1.

Khái niệm chứng minh trong tố tụng dân sự

Để có thể đi đến kết luận chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu của đương sư, Tòa án phải có đầy đủ bằng chứng về sự tồn tại hay không tồn tại của quyền dân sự mà các bên đang tranh chấp (hoặc sự tồn tại của sự kiện pháp lý mà Tòa án được yêu cầu công nhận) và bằng chứng về việc quyền dân sự đó bị xâm phạm hay không bị xâm phạm. Ví dụ: Công ty A kiện Công ty B đòi nợ theo hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai bên; để Tòa án có thể chấp nhận yêu cầu đòi nợ của A, Tòa án phải có đầy đủ chứng cứ về việc A này có quyền được thanh toán (trên cơ sở hợp đồng mua bán) và thực tế B đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng. Muốn vậy, cần phải có hoạt động chứng minh. Theo từ điển tiếng Việt, chứng minh là dùng lí luận để chứng tỏ rằng kết luận suy ra từ giả thiết là đúng, ví dụ: Chứng minh một định lí toán học. Hiện nay liên quan đến hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự, có hai cách hiểu: - Theo nghĩa rộng, chứng minh là hoạt động của các chủ thể tố tụng hoặc việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự. Cơ sở bao gồm: (1) Căn cứ thực tiễn (chứng cứ); (2) căn cứ pháp lý (quy định của pháp luật có liên quan), và (3) các lí lẽ và lập luận. - Theo nghĩa hẹp, chứng minh là hoạt động tố tụng của các chủ thể trong việc cung cấp chứng cứ, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Cách hiểu thứ nhất được nhiều ý kiến đồng tình hơn bởi chứng minh không chỉ bao gồm các hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, mà còn bao gồm việc chỉ ra các căn cứ pháp lý và đưa ra lập luận, lý lẽ để thuyết phục Tòa án chấp nhận hoặc bác bỏ yêu cầu đương sự. Như vậy, chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động của các chủ thể tố tụng dân sự nhằm làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự, để trên cơ sở đó Tòa án ra quyết định về việc giải quyết yêu cầu của các đương sự. 4.1.1.2.

Ý nghĩa của chứng minh trong tố tụng dân sự

Kết quả giải quyết các vụ việc dân sự phụ thuộc vào kết quả của hoạt động chứng minh. Và vì vậy, hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự mang lại nhiều ý nghĩa cho cả Tòa án lần đương sự.

- Về phía Tòa án hoạt động chứng minh có ý nghĩa giúp Tòa án giải quyết vụ việc một cách công bằng và đúng đắn. Thông qua hoạt động chứng minh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân biết rõ được các tình tiết, sự kiện, diến biến của vụ việc dân sự cần được giải quyết, từ đó đưa ra cách giải quyết hợp lý nhất. - Còn đối với đương sự, chứng minh là phương tiện để các đương sự làm rõ được yêu cầu của mình, bác bỏ yêu cầu của đương sự khác nhằm thuyết phục Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp. 4.1.2. Chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự Theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay, đương sự là chủ thẻ đầu tiên và chủ yếu có nghĩa vụ chứng minh. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Nội dung nghĩa vụ chứng minh của đương sự phụ thuộc vào địa vị tố tụng của từng đương sự mà nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc về nguyên đơn, do nguyên đơn phải chứng minh cho việc khởi kiện hoặc yêu cầu của mình là hợp lý và có cơ sở để thuyết phục Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện hoặc yều của mình. Bị đơn có nghĩa vụ chứng minh đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý để phản đối lại yêu cầu của nguyên đơn, nếu bị đơn có yêu cầu phản tố thì cũng phải chứng minh cho yêu cầu phản tố của mình là có căn cứ và hợp pháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc phản đối yêu cầu của đương sự cũng phải chứng minh cho yêu cầu độc lập của họ là có căn cứ và hợp pháp. Xuất phát từ tính chất của vụ việc dân sự, trong một số trường hợp pháp luật quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về một bên đương sự. Đó là trường hợp quy định tại Điều 91 BLTTDS năm 2015, bao gồm: -

Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ

chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng29. -

Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp,

giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án. Ví dụ: Trong trường hợp người 29 Xem thêm Điều 42 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.

lao động xin thôi việc đã được người sử dụng lao động đồng ý nhưng công ty không trả quyết định thôi việc để người lao động rút sổ bảo hiểm xã hội nộp cho cơ quan mới. Trong trường hợp này, khi khởi kiên ra Tòa, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm cung cấp quyết định đồng ý cho thôi việc đối với người lao động, để Toà án có căn cứ xét xử. -

Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao

động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động 30. Ví dụ: Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc xử lý kỷ luật lao động trong trường hợp người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều dưỡng theo quyết định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; hoặc trường hợp người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội… thì trách nhiệm chứng minh việc đơn phương chấm dứt hợp đồng người lao động thuộc về người sử dụng lao động 3. Ngoài đương sự, các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng có nghĩa vụ chứng minh. Tuy không có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự như đương sự nhưng do các cá nhân, cơ quan, tổ chức này là bên đưa ra yêu cầu nên biết rõ sự việc nên theo quy định của BLTTDS 2015 thì họ phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Trừ trường hợp tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng 30 Trường hợp Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật (Điều 489 BLTTDS 2015 quy định về biện pháp xử lý người có hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng; Điều 495 BLTTDS 2015 quy định về biện pháp xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức không thi hành quyết định của Tòa án về việc cung cấp chứng cứ cho Tòa án,…). Việc xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Xem thêm khoản 4, Điều 12 Nghị quyết số: 04/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định về “chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi,bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự. 3 Xem thêm Điều 29 và Điều 123 Bộ luật lao động 2012.

minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đối với người đại diện của đương sự, nghĩa vụ chứng minh của người đại diện của đương sự xuất phát từ nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Tuy nhiên phạm vi đại diện khác nhau nên nghĩa vụ chứng minh của người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền cũng có sự khác biệt. Người đại diện theo pháp luật, người đại diện do Tòa án chỉ định có nghĩa vụ thực hiện tất cả nghĩa vụ chứng minh của đương sự họ đại diện, trong khi người đại diện theo ủy quyền chỉ thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong phạm vi được ủy quyền. Đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự nên cũng có nghĩa vụ chứng minh. Tuy nhiên, nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không xuất phát từ nghĩa vụ chứng minh của đương sự mà xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ tham gia tố tụng của họ. Đối với Viện kiểm sát, do thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm nên khi đưa ra quyết định kháng nghị, Viện kiểm sát cũng phải chứng minh bằng cách thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho quyết định kháng nghị của mình là có cơ sở. Về nguyên tắc, Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh, nhưng trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập chứng cứ hoặc trong những trường hợp pháp luật quy định thì Tòa án tiến hành các biện pháp xác minh thu thập chứng cứ. Ngoài ra Tòa án còn phải tiến hành các hoạt động chứng minh khác như nghiên cứu, đánh giá chứng cứ… Việc chứng minh của Tòa án nhằm bảo đảm tìm ra sự thật của vấn đề, để làm rõ cơ sở quyết định của mình, tránh án sai, bị kháng cáo, kháng nghị nhiều lần. Vấn đề này đã được quy định tron pháp luật TTDS của nhiều nước như các điều 10,11 và 144 BLTTDS của Cộng hòa Pháp; các Điều 56,58 và 62 BLTTDS của Cộng hòa liên bang Nga… Ở Việt Nam hiện nay được quy định tại các Điều 97, 99, 100, 101, 102, 104, 106, 108…BLTTDS 2015. Theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, trường hợp đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh

không đầy đủ: “Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc ” (khoản 4 Điều 91 BLTTHS năm 2015). Ví dụ: A kiện B đòi nợ và A xuất trình giấy nợ của B, B phản đối vì cho rằng mình đã hết nợ, nhưng B chỉ xuất trình được giấy biên nhận của A đối với một nửa khoản nợ B đã trả, ngoài ra B không đưa ra được chứng cứ nào khác về việc B đã trả một nữa số nợ còn lại. Do B không chứng minh được đẩy đủ là B đã hết trả nợ cho A, nên B phải chịu hậu quả bất lợi là Tòa án có thể tuyên buộc B phải thanh toán nốt số nợ còn thiếu dựa trên các chứng cứ do hai bên cung cấp. Tuy nhiên, đề đảm bảo tính công bằng, đối với các đương sự đã nỗ lực tự mình thực hiện được (ví dụ: chứng cứ đang do cơ quan, tổ chức, người thứ ba nắm giữ và không đồng ý cung cấp cho đương sự), thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án tiến hành một số biện pháp thu thập chứng cứ nhằm giúp đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh. 4.1.3. Đối tượng chứng minh trong vụ việc dân sự Theo từ điển tiếng Việt “đối tượng” tức là người, vật, hiện tượng mà con người nhằm vào trong suy nghĩ và hành động 31. Khi giải quyết vụ án dân sự, Tòa án phải xác định được tất cả các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự. Các tình tiết, sự kiện này được gọi là đối tượng chứng minh. Xác định đúng đối tượng chứng minh là cơ sở xác định các chứng cứ, tài liệu cần có để giải quyết vụ việc dân sự Tóm lại, đối tượng chứng minh là tổng hợp những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự cần được xác định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Để xác định đối tượng chứng minh hay những vấn đề cần chứng minh trong một vụ việc dân sự cụ thể, trước tiên cần phải xác định quan hệ pháp luật nội dung cần giải quyết trong vụ việc đó là quan hệ gì. Ví dụ: Tranh chấp về hợp đồng, tranh chấp về quyền sở hữu, tranh chấp về thừa kế… để từ đó căn cứ vào quy phạm pháp luật nội dung tương ứng nhằm tìm ra các vấn đề cần chứng minh. Việc xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết trong vụ việc dân sự dựa vào yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự. Ví dụ: Trong đơn khởi kiện, A yêu cầu Tòa án buộc B phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe do bị đơn gây thương tích cho A trong vụ tai nạn. Như vậy, quan hệ pháp luật cần giải quyết ở đây là tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 31 Xem Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2003, tr. 328.

Trên cơ sở đó , căn cứ vào quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, để yêu cầu của A được chấp nhận, A cần chứng minh bốn vấn đề (bốn yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường) bao gồm: có hành vi gây thiệt hại của B; có thiệt hại thực tế xảy ra cho A; B có lỗi trong việc gây thiệt hại; và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại thưc tế xảy ra. Nếu như B đưa ra yêu cầu phản tố về việc A cũng có lỗi khi gây thương tích cho B, thì B cũng phải chứng minh các yếu tố tương tự. Nếu B không đưa ra yêu cầu phản tố, nhưng phản đối yêu cầu của A trên cơ sở lập luận rằng B không có lỗi trong việc gây thương tích và thiệt hại cho A, thì B phải chứng minh không có yếu tố lỗi. Để đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự thuận lợi, những tình tiết, sự kiện cần phải chứng minh trong các loại việc dân sự cần phải được quy định cụ thể trong pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề này vẫn chưa được pháp luật tố tụng dân sự quy định32. 4.1.4. Những tình tiết, sự kiện không cần chứng minh (Điều 92 BLTTDS 2015) Về nguyên tắc, mọi tình tiết, sự kiện liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự đều phải được chứng minh. Tuy nhiên có một số loại tình tiết, sự kiện mà do tính chất đặc biệt của nó, Tòa án có thể sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự mà không phải chứng minh. Những tình tiết, sự kiện này được quy định cụ thể trong Điều 92 BLTTDS 2015, bao gồm: - Thứ nhất, Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận. Ví dụ: A kiện B đòi bồi thường thiệt hại do B giao hàng chậm, vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai bên. B không chịu trách nhiệm vì cho rằng sở dĩ dẫn đến việc giao hàng chậm là do sự kiện bất khả kháng (ở địa phương nơi có kho hàng của B có trận bão lớn kèm theo mưa gây lũ lụt nên giao thông tắc nghẽn, vì vậy B không thể giao hàng đúng thời hạn cho A). Sự kiện lũ lụt gây chia cắt, tắc nghẽn giao thông là một sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết, bao gồm cả Tòa án nên không cần chứng minh.

32 Trong tố tụng hình sự, đối tượng chứng minh được quy định cuj thể tại Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Những tình tiết, sự kiện mọi người đều biết có nhiều cách hiểu khác nhau do có tình tiết, sự kiện phổ biên phạm vi rất rộng như ví dụ nêu trên, nhưng cũng có tình tiết, sự kiện phổ biến ở phạm vi địa phương. Vậy, tình tiết, sự kiện phổ biến ở mức độ như thế nào thì không cần phải chứng minh? Pháp luật cũng như thực tiễn xét xử của các Tòa án đều cho thấy không thể xác định được chính xác phạm vi những người biết được tình tiết, sự kiện, tức là không thể xác định chính xác mức độ phổ biến của tình tiết, sự kiện. Ví dụ, nếu một vụ việc được một Tòa án cấp huyện giải quyết, và những tình tiết, sự kiện mà mọi người trong huyện đó đều biết, bao gồm cả Tòa án, thì đương sự không phải chứng minh. Tuy nhiên nếu vụ việc được một Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, và tình tiết, sự kiện chỉ phổ biến trong phạm vi của một huyện, nhưng Tòa án cấp tỉnh không biết, thì đướng sự vẫn phải chứng minh. Vì vậy sự đánh giá mức độ phổ biến của tình tiết, sự kiện mọi người đều biết chỉ mang tính tương đối, những sự kiện, tình tiết này chỉ không phải chứng minh trong trường hợp Tòa án cũng biết rõ về nó và “được Tòa án thừa nhận”. - Thứ hai, những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật. Ví dụ, A khởi kiện B xin ly hôn và chia tài sản, trong số tài sản chunng mà A kê khai có một ngôi nhà trước đây đã có tranh chấp về thừa kế giữa B và các chị em của B và đã được Tòa án giải quyết bằng một bản án có hiệu lực pháp luật, trong đó xác định B được quyền sở hữu ngôi nhà; trong trường hợp đó, ngôi nhà được thừa nhận là thuộc sở hữu riêng của B và B không cần phải chứng minh tình tiết ngôi nhà thuộc sở hữu riêng của B nữa. Trong trường hợp có nghi ngờ về tính đúng đắn của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là không đúng đắn, khách quan. Thì Tòa án đang giải quyết vụ án dân sự cũng không yêu cầu các đương sự chứng minh lại, mà Tòa án có thể quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự đã thụ lý và có thể đề xuất xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Đối với quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Tòa án có thể hủy quyết định đó trong cùng một vụ án mà mình đang giải quyết nếu đó là quyết định cá biệt thỏa mãn các điều kiện tại Điều 34 BLTTDS năm 2015.

- Thứ ba, những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp. Trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực thì Thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính Ví dụ, A và B là vợ chồng nộp đơn xin ly hôn, trong đơn xin ly hôn A yêu cầu tòa án chia tài sản là quyền sở hữu một ngôi nhà. B xuất trình được văn bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân giữa A và B lập trước khi nộp đơn ly hôn đã được công chứng hợp pháp, trong đó 2 bên thỏa thuận B có quyền sở hữu căn nhà kèm theo quyền sử dụng đất căn nhà, còn A có quyền sở hữu một căn hộ. Trong trường hợp này, tình tiết B và A thỏa thuận B sở hữu căn nhà nói trên sẽ không cần phải chứng minh nữa vì tình tiết này đã được xác định trong văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đã được công chứng hợp pháp. Ngoài ra, những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn đã được một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối thì bên đương sự đã đưa ra tình tiết, sự kiện đó không phải chứng minh nữa. Ví dụ: A lái xe ô tô gây tai nạn cho B khi B đang qua đường. B khởi kiện yêu cầu A bồi thường thiệt hại, và B đưa ra tình tiết A vượt đèn đỏ. A thừa nhận tình tiết này, do đó B không phải chứng minh có sự việc A vượt đèn đỏ hay không. Nếu A phản đối, B sẽ phải thu thập chứng cứ (ví dụ: tìm người làm chứng, hay tìm đoạn băng camera của cảnh sát giao thông nếu có) để chứng minh cho tình tiết này. Nếu đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện. Như vậy, sự thừa nhận của một bên đương sự hay người đại diện của họ có giá trị miễn nghĩa vụ chứng minh cho đương sự phía bên kia. 4.1.5. Các hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự 4.1.5.1.

Cung cấp chứng cứ Cung cấp chứng cứ là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng trong việc đưa

lại cho Tòa án, Viện kiểm sát các chứng cứ của vụ việc dân sự. Với mỗi loại yêu cầu khởi kiện thì các chứng cứ làm cơ sở cho yêu cầu khởi kiện là khác nhau. Ví dụ yêu cầu ly hôn thì phải có giấy đăng kí kết hôn; giấy khai sinh của các con hoặc giấy tờ xác định tình trạng con chung; các giấy tờ về tài sản của vợ chồng nếu có yêu cầu chia tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng và các

giấy tờ khác. Việc cung cấp chứng cứ được tiến hành ngay từ khi khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu thấy chứng cứ chưa đủ cơ sở giải quyết vụ việc dân sự thì Tòa án yêu cầu đương sự cung cấp bổ sung Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự33. Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự. Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ không thể công khai 34 hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác. 4.1.5.2.

Thu thập chứng cứ Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ

sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự. Đối với đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được áp dụng một hoặc một số lợi ích hợp pháp của đương sự được áp dụng một hoặc một số biện pháp quy định tại khoản 1 Điều 97 BLTTDS năm 2015 để thu thập chứng cứ, bao gồm: Thu thập tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; thông điệp dữ liệu điện tử; thu thập vật chứng; xác định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang 33 Xem thêm quy định tại Điều 203 và Điều 366 BLTTDS 2015. 34 Tòa án không công khai nội dung tài liệu, chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu chính đáng của đương sự nhưng phải thông báo cho đương sự biết những tài liệu, chứng cứ không được công khai. Quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS 2015.

lưu giữ, quản lý; yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của người làm chứng; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự không thể thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật. Để bảo đảm việc giải quyết đúng các vụ việc dân sự, Tòa án vẫn có thể tiến hành thu thập chứng cứ trong trường hợp pháp luật có quy định. Théo đó, Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ trong một số trường hợp pháp luật có quy định hoặc đương sự không thể tự mình thu thập chứng cứ và có yêu cầu. Ngoài ra trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát cũng có quyền thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, các biện pháp mà Viện kiểm sát sử dụng để thu thập chứng cứ được giới hạn trong phạm vi yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm35. Trong từng trường hợp cụ thể, tòa án có thể áp dụng một, hoặc nhiều biện pháp thu thập chứng cứ được quy định trong BLTTDS 2015. Bao gồm: a. Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng - Lấy lời khai của đương sự (Điều 98 BLTTDS 2015): Tòa án có thể lấy lời khai của đương sự tại trụ sở tòa án hoặc ngoài trụ sở tòa án. Việc lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Toà án phải bảo đảm đúng quy định của pháp luật, quy định đối với cán bộ, công chức của ngành Toà án nhân dân và bảo đảm khách quan (ví dụ: lấy lời khai của đương sự đang bị tạm giam phải được thực hiện tại Trại tạm giam theo bố trí của Ban Giám thị Trại tạm giam; lấy lời khai của đương sự bị ốm đau nhưng không đi điều trị tại cơ sở y tế phải được thực hiện tại nơi họ đang điều trị và nếu xét thấy cần thiết thì mời người chứng kiến…)36. Thẩm phán phụ trách việc giải quyết vụ việc dân sự chịu trách nhiệm lấy lời khai của đương sự, đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản

35 Xem thêm khoản 4, Điều 106 BLTTDS 2015. 36 Xem khoản 2, Điều 6, Nghị quyết Số: 04/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định về “chứng minh và chứng cứ” của bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự. Ngày 03 tháng 12 năm 2012

Sau khi lấy lời khai xong, biên bản ghi lời khai của đương sự phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận. Biên bản phải có chữ ký của người lấy lời khai, người ghi biên bản và đóng dấu của Tòa án; nếu biên bản được ghi thành nhiều trang rời nhau thì phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai. Trường hợp biên bản ghi lời khai của đương sự được lập ngoài trụ sở Tòa án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản. Đối với trường hợp đương sự lấy lời khai là người chưa đủ 15 tuổi thì việc lấy lời khai phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện hợp pháp của đương sự đó. - Lấy lời khai người làm chứng (Điều 99 BLTTDS 2015): Việc lấy lời khai của người làm chứng được thực hiện tương tự việc lấy lời khai của đương sự. Tuy nhiên, việc lấy lời khai của người làm chứng cũng có một số điểm khác biệt nhất định so với việc lấy lời khai của đương sự ở những điểm khác nhau: + Đối với những vụ việc dân sự mà có nhiều người làm chứng, Tòa án chỉ lấy lời khai của những người làm chứng cần thiết đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. + Trước khi lấy lời khai của người làm chứng thì Thẩm phán phải làm rõ mối quan hệ giữa người làm chứng với đương sự để đánh giá đúng lời khai của họ; + Thẩm phán phải lấy lời khai riêng từng người làm chứng một, không để họ tiếp xúc với nhau hoặc với đương sự trong thời gian khai báo. Khi đặc câu hỏi cho người làm chứng, Thẩm phán không được đặt những câu hỏi có tính chất gợi ý nhằm hướng đến ý thức chủ quan của người hỏi, có thể dẫn đến không đảm bảo tính khách quan và sai lệch chứng cứ. b. Đối chất (Điều 100 BLTTDS 2015) Đối chất là việc hỏi cùng một lúc nhiều đương sự, người làm chứng để so sánh, đánh giá lời khai của họ khi xét thấy có sự mâu thuẫn. Khi đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau theo thứ tự hợp lý (tùy từng trường hợp cụ thể mà tiến hành đối chất về từng vấn đề một hoặc để từng người trình bày về các vấn đề cần đối chất theo thứ tự). Việc đối chất phải được lập thành biên bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia đối chất.

c. Xem xét, thẩm định tại chỗ (Điều 101 BLTTDS 2015) Xem xét, thẩm định tại chỗ là biện pháp thu thập chứng cứ tòa án đến tận nơi có tài sản tranh chấp, vật chứng hoặc xảy ra sự việc để nghiên cứu, xác minh nắm vững sự việc và được tiến hành trong trường hợp tài sản tranh chấp, vật chứng không thể mang đến Tòa án xem xét được. Khi áp dụng biện pháp này, thẩm phán phải ra quyết định bằng văn bản, Thẩm phán tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ với sự có mặt của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó Ví dụ: Công ty A nhận thi công dự án nâng cấp tuyến đường bộ quốc lộ 1A đi qua huyện C, trong quá trình thi công gây sập lún và đổ sập nhà của bà B, bà B khởi kiện tại Tòa án huyện C yêu cầu bồi thường thiệt hại do việc thi công công trình gây ra với tài sản của bad. Trường hợp này Tòa án huyện C sẽ ra văn bản thẩm đinh tại chỗ và phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó. Thẩm phán, thư kí được phân công giải quyết đến hiện trường để thực hiện công tác thẩm định tại chỗ với sự tham gia của đại diện công ty A, bà B, đại diện ủy ban nhân dân xã (công chức địa chính xã). d. Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định (Điều 102 BLTTDS 2015) Để phù hợp với Luật giám định tư pháp năm 2012, ngoài việc đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định như BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), BLTTDS năm 2015 còn quy định, khi đương sự đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự thì đương sự có thể yêu cầu giám định. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Trưng cầu giám định và yêu cầu giám định về cơ bản là giống nhau, chỉ khác nhau ở chủ thể yêu cầu. Trưng cầu giám định là việc Tòa án, Viện kiểm sát ra quyết định trưng cầu giám định. Yêu cầu giám định là đương sự yêu cầu cơ quan tổ chức tiến hành hoạt động giám định theo quy định của Luật giám định tư pháp. Trong thực tiễn các vụ việc dân sự có rất nhiều các trường hợp cần phải trưng cầu giám định như: giám định AND (xác nhận cha, mẹ, con); giám định chữ ký (hợp đồng, thừa kế); giám định thương tích (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng)… thì kết luận giám định có tính chất quyết định đối với phán quyết của Tòa án.

e. Định giá tài sản, thẩm đinh giá tài sản (Điều 104 BLTTDS 2015) Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản thực chất đều là việc xác định giá trị tài sản của vụ việc dân sự. Việc định giá tài sản do hội đồng định giá tài sản thực hiện. Tòa án chủ động ra quyết định đinh giá tài sản hoặc ra quyết định định giá tài sản theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự. Tòa án chủ động ra quyết định định giá tài sản khi các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản; các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản theo mức giá thấp so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba hoặc có căn cứ cho thấy tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi phạm pháp luật khi thẩm định giá. Việc thẩm định giá tài sản do tổ chức thẩm định giá thực hiện. Các đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn chức thẩm định giá tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và cung cấp kết quả thẩm định giá cho Tòa án. f. Ủy thác thu thập chứng cứ (Điều 105 BLTTDS 2015) Uỷ thác thu thập chứng cứ là việc Tòa án thụ lý giải quyết vụ việc dân sự giao cho Tòa án khác thu thập chứng cứ. Trong trường hợp cần phải thu thập chứng cứ ngoài địa hạt Tòa án thì phải ủy thác thu thập chứng cứ. Nếu việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở nước ngoài thì Tòa án làm thủ tục ủy thác tư pháp thông qua cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài mà nước đó có và Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về vấn đề này. Trong tường hợp giữa Việt nam và các nước đó chưa có kí hiệp định tương trợ tư pháp cũng như chưa tham gia điều ước quốc tế về vấn đề trên, việc ủy thác tư pháp thu thập chứng cứ được thực hiện trên nguyên tắc “ có đi có lại” theo Luật tường trợ tư pháp 37.

37 Uỷ thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Điều 6). Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự giữa Việt Nam và nước ngoài, bao gồm: (i) Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự; (ii) Triệu tập người làm chứng, người giám định; (iii) Thu thập, cung cấp chứng cứ; (iv) Các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về dân sự (Điều 13). Xem thêm Luật tương trợ tư pháp 2007 và Thông tư liên tịch số: 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC quy định TANDTC quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự

g. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ (Điều 106 BLTTDS 2015) Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu , chứng cứ. Khi yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ, đương sự phải làm văn bản yêu cầu ghi rõ tài liệu, chứng cứ cần cung cấp; lý do cung cấp; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cần cung cấp. Trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn Trường hợp Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật (Điều 489 BLTTDS 2015 quy định về biện pháp xử lý người có hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng; Điều 495 BLTTDS 2015 quy định về biện pháp xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức không thi hành quyết định của Tòa án về việc cung cấp chứng cứ cho Tòa án,…). Việc xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án 4.1.5.3.

Nghiên cứu chứng cứ

Nghiên cứu chứng cứ là kiểm tra, xem xét nhằm tìm hiểu chứng cứ. Việc nghiên cứu chứng cứ được các chủ thể tố tụng tiến hành trong suốt quá trình tố tụng dân sự. Để thực hiện việc nghiên cứu chứng cứ có hiệu quả, tất cả tài liệu chứng cứ, vật chứng chứa đựng thông tin về vụ việc dân sự đều phải được kiểm tra, xem xét. 4.1.5.4.

Đánh giá chứng cứ (Điều 108 BLTTDS 2015) Đánh giá chứng cứ là nhận đinh giá trị chứng minh của chứng cứ. Trên cơ sở

kết quả của đánh giá chứng cứ, Tòa án sử dụng chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Khi đánh giá chứng cứ không được có kết luận trước về giá trị chứng minh của chứng cứ;

phải đánh giá tất cả các mặt, các mối liên hệ của chứng cứ; phải đánh giá cả các chứng cứ do các đương sự, do Tòa án cung cấp và Tòa án thu thập. Chứng cứ sau khi được đánh giá thì được công bố công khai và sử dụng, trừ chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì không được công bố công khai nhưng phải thông báo cho đương sự biết những tài liệu, chứng cứ không được công khai (Điều 109 BLTTDS 2015). 4.2.

CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

4.2.1. Khái niệm và thuộc tính của chứng cứ 4.2.1.1.

Khái niệm chứng cứ Về nguyên tắc, trong bất kì một vụ việc dân sự nào, con người cũng có thể

chứng minh được sự thật khách quan thông qua việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá các tin tức, dấu vết của hành vi đã xảy ra có liên quan đến vụ việc cần giải quyết. Những tin tức, dấu vết đó là chứng cứ, nếu được Tòa án chấp nhận sử dụng để làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự. Trên thực tế, thuật ngữ chứng cứ và bằng chứng được sử dụng như nhau nhưng thực chất chúng là các khái niệm khác nhau. Chứng cứ được dùng làm căn cứ để Tòa án xác định yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự đúng hay không. Trong khi đó, bằng chứng là cái mà các chủ thể đưa ra dùng để chứng tỏ yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là đúng. Thực ra, bằng chứng là phương tiện để các đương sự, người đại diện hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự dựa vào để chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối. Hiện nay, định nghĩa về chứng cứ cũng được quy định tại Điều 93 BLTTDS năm 2015. Theo đó, “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTDS quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”. Nói một cách ngắn gọn, chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được thu thập theo trình tự do pháp luật tố tụng dân sự quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.

4.2.1.2.

Các thuộc tính của chứng cứ

Thuộc tính là đặc tính vốn có của một sự vật tồn tại và qua đó con người nhận thức được sự vật, phân biệt đước sự vật này với sự vật khác 38. Các thuộc tính của chứng cứ, bao gồm: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. a. Tính khách quan Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là cái có thật, tồn tại ngoài ý chí chủ quan của con người và không bị hư cấu, xuyên tạc, sửa chữa theo ý muốn của con người. Các chủ thể tố tụng không thể tự tạo ra chứng cứ, mà chỉ có thể thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Yêu cầu về tính khách quan của chứng cứ loại trừ những tài liệu, vật chứng bị giả mạo, những lời khai gian dối, không đúng sự thật của đương sự, người làm chứng…. Ví dụ: A cho B vay tiền để đầu tư và yêu cầu B thế chấp ngôi nhà mà 2 vợ chồng B đang sinh sống. B biết vợ mình sẽ không đồng ý việc thế chấp ngôi nhà của hai vợ chồng nên đã giả mạo chữ ký của vợ vào hợp đồng thế chấp nhà. Hết thời hạn mà B không tự nguyện trả tiền, A đã khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc B phải trả nợ và xử lý tài sản thế chấp là ngôi nhà, nhưng vợ của B không đồng ý việc bán ngôi nhà để trả nợ vì tài sản thế chấp là tài chung của hai vợ chồng, nhưng bản thân B lại không biết, và không đồng ý. A đã xuất trình hợp đồng thế chấp nhà có chữ ký của vơ chồng B. Tuy nhiên, do việc giả mạo chữ ký nên Tòa án không thể dựa vào nội dung bản hợp đồng đó để xác định sự kiện cả hai vợ chồng B đã thế chấp ngôi nhà cho A, bởi thông tin chứa đựng trong bản hợp đồng đó không mang tính khách quan, không đúng sự thật. b. Tính liên quan Chứng cứ có tính liên quan bởi nó là căn cứ để Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, vì vậy, giữa chứng cứ và các tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự phải có mối liên quan với nhau, có thể là liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp. Chứng cứ bao gồm những tin tức, dấu vết liên quan trực tiếp đến vụ việc dân sự, tức là thông qua nó, Tòa án có thể xác định được ngay có hay không có sự tồn tại của một tình tiết, sự kiện cần chứng minh.

38 Xem từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà nẵng, 2003, tr. 932

Ví dụ: Trong một vụ án tranh chấp về thừa kế giữa A, B và C. Khi ông D là cha của A, B và C chết để lại khối di sản, A xuất trình di chúc của ông D với nội dung để lại toàn bộ di sản thừa kế cho A. Bản thân B và C phản đối vì nghi ngờ di chúc giả mạo do A lập, nên có đơn yêu cầu Tòa án xem xét, giám định chữ kí di chúc. Sau khi giám định Tòa án xác định chữ kí trong bản di chúc không phải của ông D và đây là di chúc giả mạo. Như vậy, thông tin chứa đựng trong kết luận giám định có liên quan trực tiếp đến vụ án, giúp Tòa án xác định được ngay tình tiết A có giá mạo di chúc hay không. Bên cạnh những tin tức liên quan trực tiếp đến vụ việc dân sự, còn có những tin tức liên quan gián tiếp, tức là dựa vào tin tức đó, phải qua một hoặc nhiều khâu trung gian mới giúp cho Tòa án đưa ra kết luận về tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự. Như trong ví dụ trên, A xuất trình di chúc có chữ kí của ông D để lại toàn bộ di sản cho A, nhưng B và C lại có một số người làm chứng khai rằng mối quan hệ của A và ông D không tốt, A thường xuyên to tiếng với ông D và ông D đã từng nói với hàng xóm là sau khi chết sẽ không để lại di sản cho A. Thông tin này Tòa án sẽ không dùng để khẳng định ngay A giả mạo di chúc, nhưng có ý nghĩa rất lớn đến việc xác định tình tiết A giả mạo di chúc nên cũng được xem là một nguồn chứng cứ quan trọng. Như vậy, tính liên quan của chứng cứ được thể hiện ở cả hai mặt là liên quan trực tiếp và liên quan gián tiếp, tức là qua một khâu trung gian. c. Tính hợp pháp Tính hợp pháp của chứng cứ có nghĩa là chứng cứ phải được rút ra từ những nguồn nhất định do pháp luật quy định, và quá trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng cứ phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luât Nếu như thiếu thuộc tính này, việc thu thập, đánh giá chứng cứ sẽ dề dàng bị lạm dụng, đặc biệt trong điều kiện khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc giả mạo chứng cứ, tài liệu được thực hiện rất dễ dàng và vô cùng tinh vi. Nên yêu cầu về tính hợp pháp của chứng cứ càng phải được đề cao, pháp luật tố tụng phải quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục thu thập, đánh giá chứng cứ.

4.2.2. Phân loại chứng cứ Để cho việc nghiên cứu chứng cứ dễ dàng, thuận tiện, đặc biệt để nhanh chóng xác định được giá trị chứng minh của chứng cứ, thì việc phân loại chứng cứ là cần thiết. Có nhiều cách phân loại chứng cứ dựa trên các tiêu chí khác nhau. Dựa vào nguồn chứng cứ, người ta chia thành chứng cứ theo người và chứng cứ theo vật: - Chứng cứ theo người là chứng cứ được rút ra từ lời khai của con người, như các đương sự, người làm chứng… - Chứng cứ theo vật là chứng cứ được rút ra từ những vật như những vật chứng, các tài liệu, giấy tờ… Dựa vào cách thức tạo thành chứng cứ, chứng cứ được chia thành: chứng cứ gốc và chứng cứ sao chép lại, thuật lại. - Chứng cứ gốc là chứng cứ được thu thập từ nguồn đầu tiên mà không qua khâu trung gian nào (bản tài liệu chính, người trực tiếp chứng kiến sự việc). Ví dụ, A cho B vay tiền và lập thành hợp đồng bằng văn bản, khi đáo hạn B không hoàn trả số tiền đã vay cho A, A khởi kiện B ra Tòa, thì bản hợp đồng đó chính là bản gốc. - Chứng cứ sao chép lại, thuật lại là chứng cứ được thu thập không phải từ nguồn đầu tiên, mà được thu thập qua các khâu trung gian (đó là những tài liệu sao chép lại, lời khai của những người được người khác kể lại về các tình tiết của vụ việc…). Ví dụ như trong trường hợp ví dụ trên nếu trường hợp bản hợp đồng chính bị hư hại hay bị mất mà chỉ cung cấp được bản sao hợp đồng đã được chứng thực, thì hợp đồng đã được chứng thực này chính là chứng cứ sao chép lại. Dựa vào mối liên hệ giữa chứng cứ với các sự kiện cần chứng minh trong vụ án, người ta phân thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp: - Chứng cứ trực tiếp là những chứng cứ có mối quan hệ trực tiếp với những sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự. Dựa vào chứng cứ trực tiếp có thể xác định ngay những yêu cầu cần chứng minh. Ví dụ để xác định cha mẹ cho con thì kết

quả AND (xét nghiệm gen di truyền) của đương sự sẽ là một chứng cứ trực tiêp có sức thuyết phục giúp Tòa án có thể ra phán quyết một cách nhanh chóng và đúng đắn. - Chứng cứ gián tiếp là những chứng cứ mà phải qua nhiều khâu trung gian khác mới xác định được giá trị chứng minh của chúng đối với vụ việc dân sự. Ví dụ như việc tuyên bố một người là đã chết do biệt tích 5 năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà không có thông tin xác thực là còn sống hay đã chết, thì việc đưa ra chứng cứ trực tiếp để kết luận người đó đã chết rất khó khăn mà phải dựa vào những sự kiện, chứng cứ trung gian khác như: xác định người đó có tham gia chiến đấu không, chiến đấu ở chiến trường nào, trung đội, tiểu đội nào, xác định chiến tranh kết thúc khi nào, tin tức cuối cùng nhận được từ người đó tính đến thời điểm chiến tranh kết thúc… Tất cả những tình tiết trung gian này cho phép suy đoán người một người đã chết. Ngoài những cách phân loại chứng cứ nói trên, trên thực tế còn có rất nhiều cách phân loại chứng cứ khác nhau, ví dụ như dựa và cách thức hình thành, thể hiện của chứng cứ người ta chia thành chứng cứ viết và chứng cứ miệng; hay dựa vào giá trị chứng minh của chứng cứ đối với vụ việc dân sự người ta chia thành chứng cứ khẳng định và chứng cứ phủ đinh… 4.2.3. Nguồn chứng cứ Theo từ điển tiếng Việt, “nguồn” được hiểu là nới bắt đầu, nơi phát sinh ra hoặc nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì, điều gì. Cũng trên cơ sở đó, nguồn chứng cứ được hiểu là nơi rút ra các chứng cứ, bao gồm người, vật, tài liệu chứa đựng tin tức, dấu vết về các tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự. Việc phân biệt nguồn chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định giá trị chứng minh của mỗi loại chứng cứ. Đối với những chứng cứ được được rút ra từ vật, tài liệu và các phương tiện vật chất khác do không chịu sự chi phối bởi ý chí chủ quan của con người nên chứng cứ rút ra có độ tin cậy cao, việc đánh giá và sử dụng loại chứng cứ này ít phức tạp hơn. Đối với những chứng cứ được rút ra từ con người như đương sự, người làm chứng việc nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chúng rất phức tap bởi chịu sự chi phối

rất lớn bởi các yếu tố chử quan như khả năng nhớ, nhận thức và trình bày của mỗi người, lợi ích, tâm lý, thái độ, định kiến của họ đối với vụ việc… Nguồn chứng cứ được quy định tại Điều 94 BLTTDS 2015 bao gồm: Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập; văn bản công chứng, chứng thực; các nguồn khác mà pháp luật có quy định.  Tài liệu đọc được nội dung Các tài liệu đọc được nội dung (ví dụ: hợp đồng, di chúc, giấy ủy quyền, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy khai sinh…) phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác thật. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Ví dụ, đương sự bị mất giấy khai sinh (bản gốc), nhưng xuất trình được giấy khai sinh được cơ quan có thẩm quyền cấp lại (bản cấp lần 2), và bản cấp laị này được coi là bản chính vì được dùng làm cơ sở để lập ra các bản sao giấy khai sinh. Đương sự giao nộp cho Tòa án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp. Đây là điểm mà các đương sự cần lưu ý, nhất là đối với những tranh chấp có yếu tố nước ngoài mà trong quá trình giải quyết, Tòa án cần thiết sử dụng các chứng cứ bằng tiếng nước ngoài. Có nhiều trường hợp hội đồng xét xử giám đốc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm vì lý do Tòa án sơ thẩm hoặc phúc thẩm đã dựa vào chứng cứ là bản hợp đồng gốc bằng tiếng nước ngoài không có bản dịch tiếng Việt có công chứng, chứng thực hợp pháp để giải quyết vụ việc dân sự 39

 Tài liệu nghe được, nhìn được 39 Ví dụ, tại Quyết định giám đốc thẩm số 02/2012/KDTM-GĐT ngày 27/3/2012 Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn là Công ty Cổ phần thương mại Duy Linh và bị đơn là Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng Bảo Long. Hội đồng giám đốc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, trả hồ sơ để xét xử sơ thẩm lại. Một trong những căn cứ dẫn đến hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm là cả Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã dựa vào bản hợp đồng photo bằng tiếng Anh không được công chứng, chứng thực hợp pháp để xác định bản hợp đồng là xác thực và hợp pháp. Xem toàn văn quyết định tại website Tòa án nhân dân tối cao: http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/545500/3382453?page=1&m_action=6&cmdTim =Tim&p_maVanBan=581

Các tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, phim, ảnh,… Nếu đương sự không xuất trình các văn bản nêu trên, thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp không được coi là chứng cứ. Ví dụ: Trên một đoạn đường vắng, A gây tai nạn cho B, toàn bộ vụ tai nạn đã được camera an ninh khu phố đó ghi lại. B khởi kiện A yêu cầu bồi thường thiệt hại đồng thời liên hệ với công an khu vực xảy ra tai nạn để trích xuất camera làm chứng cứ. Trường hợp này để đoạn video vụ tai nạn đó được Tòa án chấp nhận là nguồn chứng cứ, B phải nộp cho Tòa án đoạn video kèm theo văn bản xác nhận của công an khu vực gây tai nạn về xuất xứ và nguồn gốc của cuộn băng đó. Trường hợp chính đương sự là người ghi âm hoăc ghi hình thì đương sự phải giao nộp băng ghi âm, ghi hình kèm theo văn bản về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Ví dụ: A và B là bạn bè, do làm ăn thua lỗ nên A đã vay tiền của B để đầu tư làm ăn, do tin tưởng và là bạn bè lâu năm nên B không viết giấy cho vay nợ với A. Tuy nhiên, để đề phòng rủi ro B đã ghi âm lại cuộc hội thoại về việc A thừa nhận vay tiền của B và B đã chuyển tiền cho A. Do làm ăn tiếp tục thua lỗ nên A không trả nợ đúng hạn cho B, B đã làm đơn khởi kiện kèm theo chứng cứ là cuộn băng ghi âm. Trong trường hợp này đoạn ghi âm chỉ được xem là chứng cứ B xuất trình được kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc ghi âm. Như văn bản xác nhận thời gian, địa điểm ghi âm, văn bản xác nhận A và B có gặp mặt thời điểm ghi âm; A thừa nhận giọng nói trong đoạn băng ghi âm là của mình hoặc cơ quan giám định có kết luận xác nhận giọng nói trong đoạn băng ghi âm là của A...  Vật chứng Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự; nếu không phải là hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì không phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó. Giá trị chứng minh của vật chứng thể hiện ở tính đặc định của vật đó, khác biệt với các vật cùng loại. Vì vậy, vật chứng cần phải được bảo quản tốt đề giữ gìn tính đặc dụng của nó

 Lời khai của đương sự, người làm chứng Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và được xuất trình theo đúng thủ tục quy định đối với tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được như trên. Trường hợp đương sự khai bằng lời tại Tòa đương nhiên được sử dụng làm chứng cứ do có sự chứng kiến của tất cả các chủ thể tố tụng có mặt tại phiên tòa và được ghi nhận lại vào trong biên bản phiên tòa.  Kết luận giám định Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Luật giám định tư pháp, các văn bản pháp luật liên quan.Ví dụ, trong hầu hết các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ hiện nay, Tòa án đều phải dựa vào kết luận giám định sở hữu trí tuệ của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả, xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế..., cũng như để xác định thiệt hại do hành vi đó gây ra.  Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định tại chỗ được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Điều 101 của BLTTDS 2017  Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định Ngoài các nguồn trên thì văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lí do người có chức năng lập tại chỗ hoặc văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu được tiến hành theo đúng thủ tục, trình tự do pháp luật quy định Bên cạnh đó tập quán cũng là một nguồn chứng cư quan trọng, được sử dụng để chứng minh trong các vụ việc dân sự trong trường hợp không có văn bản pháp luật điều chỉnh. Bộ luật TTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định rõ tập quán là nguồn căn bản của chứng cứ tại khoản 7 Điều 82, nhưng sang đến BLTTDS năm 2015 đã có sự thay đổi khi không còn quy định cụ thể “Tập quán” là một nguồn chứng cứ, mà được quy định tại khoản 10 Điều 94 là các nguồn khác mà pháp luật có

quy định. Bản chất tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng. Tập quán dược coi là chứng cứ, nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận. Ví dụ: Liên quan đến tập quán về chuyển giao quyền sở hữu và chuyển giao quyền sử dụng tài sản. Đồng bào dân tộc H’Mông (Lai Châu) có phong tục mượn gia súc như trâu, bò để canh tác (cày ruộng). Mỗi khi mượn trâu bò, người mượn phải mang một chai rượu ngô hoặc rượu gạo và một chút thức ăn thường ngày đến để cùng uống rượu với chủ sở hữu gia súc với ý nghĩa là hàm ơn và là một nghi thức của tập quán. Ông A nguyên là chủ sở hữu của một con trâu đực đã yêu cầu ông B đang chiếm hữu con trâu đó có nghĩa vụ giao trả ông A con trâu đã mượn. Ông B không đáp ứng yêu cầu của ông A với lý do là ông A đã bán con trâu đó cho ông 12 tháng rồi. Tuy nhiên, không có một bằng chứng nào về việc ông A và ông B đã giao kết hợp đồng mua bán trâu. Theo tập quán thì ông B không có nghĩa vụ phải trả lại trâu cho ông A,vì ông B không phải thực hiện nghi thức là mang rượu và thức ăn đến nhà ông A để cùng uống và mượn trâu, cho nên việc ông B mượn trâu của ông A là không có, mà sự thật là ông B đã mua trâu của ông A, bên cạnh đó dân tộc H’Mông không có lệ mượn trâu trong thời hạn dài như vậy, mà nếu không thoả thuận về thời hạn mượn thì bên mượn trâu có nghĩa vụ trả lại trâu sau khi mục đích mượn đã đạt được - là cày ruộng xong. Áp dụng tập quán thì rõ ràng, ông B không mượn trâu của ông A vì không có việc ông B mang rượu và đồ ăn đến nhà ông A để uống và mượn trâu. Sự kiện này chứng tỏ rằng ông B đã mua con trâu của ông A, và ông B không có nghĩa vụ trả lại trâu cho ông A, vì ông B đã là chủ sở hữu của con trâu mua được từ ông A cách thời điểm tranh chấp 12 tháng.

Chỉ chấp nhận tập quán không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đối với những vấn đề mà đương sự viện dẫn tập quán nhưng đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định, thì Toà án phải áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà không áp dụng tập quán. Ví dụ: Trong một số đồng bào dân tộc thiểu số có tập quán chỉ để lại tài sản thừa kế cho con gái mà không để lại cho con trai hay tục bắt vợ, tục “nối dây” khi chồng chết phải lấy anh em trai của chồng, hay vợ chết phải lấy em gái hoặc chị

gái của người quá cố…thì tập quán này không được chấp nhận. Vì đây là tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình cần vận động xoá bỏ theo quy định tại phụ lục B “Danh mục phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình của các dân tộc bị nghiêm cấm áp dụng hoặc cần vận động xoá bỏ” ban hành kèm theo Nghị định số 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ đã ban hành Danh mục Các tập quán lạc hậu về hôn nhân gia đình cần vận động xóa bỏ và cấm áp dụng

CÂU HỎI ÔN TẬP Câu 1: Nhận định sau đây đúng hay sai? Giải thích và nêu căn cứ pháp lý a. Việc lấy lời khai của người làm chứng phải được thực hiện tại trụ sở Tòa án  Sai, căn cứ K1Đ9, BLTTDS 2015. Lời khai còn được lấy ngoài trụ sở tòa án, ví dụ như như người đó khó khăn trong việc di chuyển

b. Đương sự được quyền trưng cầu giám định để thu thâp chứng cứ.  Sai, vì đương sự chỉ có quyền yêu cầu tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu khi mà tòa án từ chối, chứ không được quyền trưng cầu giám định, căn cứ K1Đ102, K1Đ120, BLTTDS 2015.

c. Chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự là đương sự  Sai, vì ngoài đương sự còn có người đại diện của đương s, người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của đương sự, viện kiểm sát, tòa án. Căn cứ Đ91, BLTTDS 2015.

d. Trong tố tụng dân sự không đặt ra nghĩa vụ chứng minh đối với Viện kiểm sát Sai, vì Đối với Viện kiểm sát, do thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm nên khi đưa ra quyết định kháng nghị, Viện kiểm sát cũng phải chứng minh bằng cách thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho quyết định kháng nghị của mình là có cơ sở.

e. Những tranh chấp về dân sự có tập quán điều chỉnh sẽ áp dụng tập quán để giải quyết.

Sai, vì Chỉ chấp nhận tập quán không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đối với những vấn đề mà đương sự viện dẫn tập quán nhưng đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định, thì Toà án phải áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà không áp dụng tập quán.

f. Băng ghi âm, ghi hình có liên quan đến vụ việc dân sự đều được sử dụng làm chứng cứ. Sai, vì nếu đương sự không xuất trình các văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó., thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp không được coi là chứng cứ.

Câu 2: Giải quyết tình huống sau: Anh A và chị B kết hôn năm 2014. Sau khi kết hôn anh A được bố mẹ tặng cho căn biệt thự tại xã M tại huyện H, tỉnh N. Năm 2016, anh A và chị B mua thêm được một căn nhà số 100 đường Y thị xã K, tỉnh N. Về con, anh chị đã có hai con chung. Do mâu thuẫn vợ chồng tháng 6 năm 2017, chị B đã viết đơn gửi Tòa án thị xã K yêu cầu ly hôn, chia tài sản và giải quyết vấn đề nuôi con với anh A. a. Hãy xác định đối tượng chứng minh của vụ án trên? b. Hãy cho biết những tài liệu chứng cứ mà chị B phải gửi đến Tòa án khi nộp đơn khởi kiện. Câu 3: Năm 2011 Ông Trần Văn A chết di sản của ông là căn nhà trị giá 5 tỷ đồng toạ lạc tại Quận 7.TPHCM. Căn nhà này ông Giàu đang thế chấp cho ngân hàng X để vay 1 tỷ đồng. Người thừa kế hợp pháp của ông Giàu là anh Trần Văn B, Trần Hoàng C và chị Trần Thị D (cha,mẹ và vợ ông A đã chết trước ông A)

Anh Trần Văn B đã khởi kiện yêu cầu chia thừa kế và Toà án đã thụ lý vụ án. Khi Toà án đang giải quyết vụ án thì ông Nguyến Văn T đã làm đơn yêu cầu Toà án buộc anh B, C, D thanh toán số nợ ông Trần Văn A đã vay . a)

Anh / chị xác định tư cách đương sự trong vụ án

b)

Xác định toà án có thẩm quyền giải quyết

c)

Căn cứ quyết định của BLTTDS hãy cho biết điều kiện của ông B phải gởi kèm

theo những giấy tờ, tài liệu nào Câu 4:

Chương 5 BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI; CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO CÁC VĂN BẢN TỐ TỤNG; THỜI HẠN TỐ TỤNG, THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VÀ THỜI HIỆU YÊU CẦU

 Mục tiêu Sau khi tìm hiểu về nội dung chương 5: Biện pháp khẩn cấp tạm thời; cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng; thời hạn tố tụng, thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu, sinh viên có khả năng hiểu và nắm được những nội dung căn bản: - Thứ nhất, hiểu được trong trường hợp nào sẽ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nắm được bản chất 16 biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dấn sự 2015, chủ thể có quyền áp dụng cũng như thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp

tạm thời. Qua đó vận dụng vào từng tình huống thực tế, lựa chọn từng biện pháp thích hợp để áp dụng. - Thứ hai, biết được bản chất và nắm được các loại văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt, thông báo; chủ thể có quyền cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng cũng như các phương thức và thủ tục thực hiện nó. - Thứ ba, nắm được thời hạn tố tụng, thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu đối với từng vụ án và việc dân sự cụ thể để vận dụng vào tình huống thực tế.  Nội dung giảng dạy - Biện pháp khẩn cấp tạm thời - Cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng - Thời hạn tố tụng, thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu  Phương pháp Để giúp sinh viên hiểu rõ vấn đề giảng viên đi sử dụng phương pháp gọi tên vấn đề, kết hợp với phương pháp thuyết giảng. Bên cạnh đó, giảng viên sử dụng phương pháp đặt các câu hỏi phát vấn để kiểm tra kiến thức cũ và đánh giá khả năng nắm bắt bài học của người học.  Tài liệu học tập - Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP nghị quyết của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định tại chương VIII "các biện pháp khẩn cấp tạm thời" của Bộ luật tố tụng dân sự 2005. Ban hành ngày 27 tháng 4 năm 2005 - Nghị quyết số: 01/2017/NQ-HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự do Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. - Nghị quyết số: 103/2015/QH13 của quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự 2015 - Nghị quyết số: 02/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của quốc hội về việc thi hành luật tố tụng hành chính - Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự

- Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017, hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án

5.1.

BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI

5.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của biện pháp khẩn cấp tạm thời 5.1.1.1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời Mục đích cuối cùng của việc giải quyết các tranh chấp dân sự là nhằm bảo vệ quyền và ơi ích hợp pháp của các chủ thể, lợi ích Nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội. Vì vậy, trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đôi khi Tòa án phải áp dụng một hoặc một số biện pháp cần thiết để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng hoặc để đảm bảo thi hành án. Các biện pháp này còn gọi là biện pháp khẩn cấp tạm thời. Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp Tòa án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án dân sự Các biện pháp khẩn cấp tạm thời có đặc điểm là vừa mang tính “khẩn cấp” vừa mang tính “tạm thời”. - Tính “khẩn cấp” của các biện pháp này được thể hiện ở chỗ Tòa án phải ra quyết định áp dụng ngay và quyết định này được thi hành ngày sau khi được Tòa án đã quyết định áp dụng nếu không quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ví dụ, Nếu Tòa án không áp dụng kịp thời việc phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ tài sản trong vụ việc được Tòa án thụ lý giải quyết thì người có nghĩa vụ có thể chuyển tài sản của mình hoặc bán cho các chủ thể khác nhằm tẩu tán tài sản để tránh việc thực hiện nghĩa vụ. - Tính “tạm thời” của biện pháp này được thể hiện: quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không phải là quyết định cuối cùng khi giải quyết về mặt nội dung vụ việc dân sự. Đây chỉ là biện pháp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích một bên của đương sự, chưa phải lầ quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nếu lý do của việc áp dụng không còn nữa thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định này. 5.1.1.2. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ giải quyết được tình trạng cấp bách tạm thời, khống chế và ngăn chặn được hành vi tẩu tán tài sản, hủy hoại hoặc xâm phạm chứng cứ, hoặc những hành vi vi phạm khác có thể xảy ra trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự

Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời còn bảo đảm cho Tòa án có thể bảo vệ được các chứng cứ quan trọng của vụ việc, bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời còn có ý nghĩa trong việc bảo toàn được tình trạng tài sản, tránh việc gây thiệt hại không thể khắc phục, đảm bảo cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án. 5.1.2. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời Theo quy định tại Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, có 16 biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, tăng thêm 4 biện pháp so với 12 biện pháp KCTT của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011. Ngoài các biện pháp khẩn cấp tạm thời này Tòa án có thể áp dụng thêm các BPKCTT khác do pháp luật quy định Các biện pháp khẩn cấp tạm thời này chỉ được áp dụng khi thõa mãn các điều kiện chung về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cũng như những điều kiện áp dụng riêng đối với từng biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể theo quy định của pháp luât, Khoản 1 Điều 111 BLTTDS 2015 quy định Tòa án chỉ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi thuộc một trong những trường hợp sau: - Để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của đương sự có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được Tòa án giải quyết và cần phải được giải quyết ngay, nếu không sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự - Để thu thập, bảo vệ chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được - Để đảm bảo tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được - Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án, có nghĩa là tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án giải quyết kịp thời , đúng đắnvụ án theo đúng quy định pháp luật - Để đảm bảo cho việc thi hành án, tức là đảm bảo các điều kiện tổ chức thi hành án khi có bản án, quyết định của Tòa án a. Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. (Điều 115 BLTTDS 2015) Điều kiện áp dụng: - Thứ nhất: Việc giải quyết vụ án có liên quan đến những người này mà họ chưa có người giám hộ trong trường hợp cha mẹ đứa trẻ, người mất năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi không có điều kiện nuôi con .

- Thứ hai: Việc giao người chưa thành niên từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của người đó. Ví dụ như các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi như các vụ án về hôn nhân và gia đình, vụ án ly hôn, tước quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên của bố mẹ do các cá nhân, cơ quan tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT hoặc khi xét thấy cần thiết Tòa án có thể áp dụng. Trên thực tế việc áp dụng BPKCTT này chỉ được áp dụng khi cả bố mẹ người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và điểu chỉnh hành vi của mình bị phạt tù, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con hoặc một người bị phạt tù người còn lại do hoàn cảnh đặc biệt như khó khăn như tàn tật mắc bệnh hiểm nghèo hoặc không có điều kiện nuôi dưỡng con. a. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng. (Điều 116 BLTTDS 2015) Theo quy định của pháp luật, buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng 40 được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và nếu không thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, đời sống của người được cấp dưỡng. Tòa án chỉ xem xét áp dụng BPKKTT khi xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ như người bị yêu cầu là cha mẹ, vợ chồng của người được cấp có nghĩa vụ phải cấp dưỡng cho người yêu cầu cấp dưỡng và nếu không thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, đời sống của người yêu cầu cấp dưỡng như người yêu cầu do ốm đau, bệnh tật, phải nuôi con nhỏ ốm đau, không có việc làm… b. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm. (Điều 117 BLTTDS 2015) Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm là việc người gây thiệt hại phải ứng trước một khoản tiền nhất định để bồi thường thiệt thiệt hại cho người bị thiệt hại. Theo quy định pháp luật việc buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có 40 “Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu” Xem thêm quy định khoản 24 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

liên quan đến yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm. Tòa án chỉ áp dụng BPKKTT này khi xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ như bản thân người bị thiệt hại không thể đảm bảo được cuộc sống bình thường của mình (không có khả năng lao động để có thu nhập nuôi sống bản thân trong thời gian điều trị; không có chi phí cho việc điều trị…); người cần được cấp dưỡng khi người bị thiệt hại chết gặp khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt nên cần phải có sự đáp ứng về mặt vật chất… Ví dụ: Ông M gây tai nạn làm ông N bị chấn thương (chưa đến mức độ khởi tố hình sự). Ông N phải vào điều trị trong bệnh viện. Gia đình ông N làm đơn kiện ông M. Trong trường hợp này, phía nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa ra quyết định buộc ông M phải thanh toán trước một phần tiền để phía ông N trả chi phí điều trị do gia đình hiện rất khó khăn, không có điều kiện chi trả ngay. a. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động. (Điều 108 BLTTDS 2015) Là việc người sử dụng lao động phải ứng trước một khoản tiền nhất định để trả lương, đóng tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động Tòa án chỉ áp dụng biện pháp KCTT này khi xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ khi người sử dụng lao động có nghĩa vụ trả tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động và xét thấy cần thiết như người lao động lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế do ốm đau, tai nạn lao động, nuôi con nhỏ…nếu không giải quyết ngay sẽ không duy trì được cuộc sống của họ và những người mà họ có nghĩa vụ nuôi dưỡng. b. Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động (Điều 119 BLTTDS 2015) Theo quy định pháp luật, tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải41 người lao động được áp dụng nếu việc giải 41 Xem thêm các Điều 38,39 và 126 Bộ luật lao động 2012 quy định các trường hợp người sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và các trường hợp sa thải người lao động.

quyết vụ án có liên quan đến đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, sa thải người lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc không được xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động. Trên tực tế Tòa án chỉ quyết định áp dụng BPKCTT này khi xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ như việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc buộc thôi việc người lao động là trái pháp luật và xét thấy cần thiết như người laao động đang gặp khó khăn về kinh tế do không có thu nhập khác phải nuôi dưỡng người già, người tàn tật, nuôi con nhỏ … mà nếu không xêm xét giải quyết ngây họ khó có thể duy trì được cuộc sống của họ và những người mà học có nghĩa vụ cấp dưỡng và nuôi dưỡng. Khi Tòa án quyết định tạm đình chỉ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm nhận người lao động trở lại làm việc cho đến khi có quyết định mới từ Tòa án. c. Kê biên tài sản đang tranh chấp (Điều 120 BLTTDS 2015) Kê biên tài sản đang tranh chấp là việc kiểm kê, cấm chuyển dịch tài sản đang tranh chấp. Khi tranh chấp chưa được giải quyết, tài sản tranh chấp vẫn có thể được định đoạt bằng các hình thức khác nhau. Nếu tài sản bị kê biên, tài sản đó không thể được định đoạt – nói cách khác, tài sản đó sẽ bị hạn chế quyền định đoạt. Theo quy định của pháp luật, kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản. Ví dụ: Ông A và ông B đang có tranh chấp về một căn nhà mua bán với nhau. Ông A là người mua đã giao tiền, nhưng ông B không giao nhà. Ông A đã nộp đơn khởi kiện ông B, yêu cầu phải giao nhà. Trong lúc Tòa án đang thụ lý giải quyết thì ông B có dấu hiệu phá hủy, tháo dỡ các công trình phụ trong ngôi nhà đang tranh chấp. Trong trường hợp này, ông A có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án kê biên căn nhà nói trên (là tài sản đang tranh chấp) để sau này nếu thắng kiện thì tình trạng căn nhà vẫn nguyên vẹn như khi hai bên thỏa thuận mua bán ban đầu. Một điều cần lưu ý là biện pháp này chỉ áp dụng cho tài sản đang tranh chấp chứ không phải là tài sản không liên quan. Chẳng hạn như trong ví dụ trên, ông B có 2 căn nhà, và căn nhà đang có tranh chấp (hai bên đã mua bán) là X. Thì ông A chỉ có quyền yêu cầu kê biên căn nhà X chứ không có quyền yêu cầu kê biên căn nhà kia.

Tài sản bị kê biên có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án dân sự hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Tòa án a. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp (Điều 121 BLTTDS) Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp là việc không cho thay đổi quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người khác. Khi Tòa án đã quyết định áp dụng BPKCTT cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp thì mọi sự chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp đều vô hiệu. Ví dụ: Cũng như trường hợp trên. Nhưng ông B đang rao bán căn nhà đang tranh chấp. Khi đó, ông A có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định “cấm dịch chuyển quyền tài sản” đối với căn nhà. Khi đó, ông B sẽ không thể bán nhà được nữa. ( Vì quyết định của Tòa án đã được thông báo tới các nơi đăng ký tài sản, phòng công chứng – là nơi mà muốn bán nhà thì ông B phải ‘đi qua”. b. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp (Điều 122 BLTTDS 2015) Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp là việc không cho phép thay đổi hiện trạng tài sản, chỉ đặt ra đối với những tài sản đang tranh chấp. Nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó. Khi Tòa án quyết định áp dụng BPKCTT này người đang chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được giao bảo quản tài sản có nghĩa vụ bảo quản tài sản, giữ nguyên hiện trạng tài sản; các hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm và các hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó đều phải bị xử lý theo quy định pháp luật. c. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa là việc cho thu, bán những sản phẩm về nông nghiệp hoặc những sản phẩm, hàng hóa khác. Nếu trong quá trình giải quyết vụ án có tài sản đang tranh chấp hoặc liên quan đến tranh chấp mà có hoa

màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác ở thời kỳ thu hoạch hoặc không thể bảo quản được lâu dài. Ví dụ: Công ty A kiện ông B về việc tự ý bán mía cho công ty C, trong khi trước đây đã ký hợp đồng bao tiêu với công ty A . Trong khi tòa chưa xét xử thì mía đã già, nếu không thu hoặc sẽ phải vứt bỏ, thành củi. Khi đó, công ty A có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc ông B “trước mắt” phải thu hoạch mía giao cho công ty A. d. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước (Điều 124 BLTTDS 2015) Phong tỏa tài sản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước là việc cô lập không cho chuyển dịch tài sản ở tài khoản ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước. Điều kiện áp dụng: - Thứ nhất, có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước - Thứ hai, việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. Khi áp dụng BPKTT Tòa án không được áp dụng BPKCTT vượt quá yêu cầu áp dụng BPKCTT của cá nhân, cơ quan, tổ chức và về nguyên tắc thẩm phán chỉ có thể phong tỏa tài khoản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản phải thực hiện theo đơn khởi kiện của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trở xuống. Khi Tòa án đã quyết định áp dụng biện pháp KCTT này, mọi giao dịch thực hiện đối với tài sản của tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước bị phong tỏa đều vô hiệu. k. Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ (Điều 125 BLTTDS 2015) Phong tỏa tài sản tại nơi gửi giữ là việc cô lập không cho chuyển dịch tài sản đang do người khác nhận gửi giữ. Điều kiện áp dụng: -

Thứ nhất, có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ

-

Thứ hai, việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc

giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.

Nhận được quyết định áp dụng BPKCTT này của Tòa án, người đang nhận gửi giữ tài sản bị phong tỏa có trách nhiệm ngừng mọi giao dịch liên quan đến tài sản bị phong tỏa cho đến khi có quyết định khác về tài sản bị phong tỏa của Tòa án. l. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ (Điều 126 BLTTDS 2015) Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ là việc cô lập không cho chuyển dịch tài sản của người có nghĩa vụ đang do họ giữ. Căn cứ áp dụng: -

Thứ nhất, có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản

-

Thứ hai, việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc

giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án Ví dụ : Ông K kiện đòi nợ ông H 100 triệu đồng. Vì thấy rằng ông H nhiều khả năng không có tiền mặt để thi hành án, nên ông K đã yêu cầu Tòa ra quyết định phong tỏa một tài sản của ông H, chẳng hạn là một căn nhà. Như vậy, có thể thấy việc “phong tỏa” khác với việc “kê biên”. Phong tỏa áp dụng đối với tài sản “không có tranh chấp” giữa hai bên. Trong ví dụ trên, ông K và ông H không có tranh chấp về căn nhà. Trong trường hợp tài sản bị yêu cầu phong tỏa là tài sản không thể phân chia được (không thể phong tỏa một phần tài sản đó) có giá trị cao hơn nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ phải thực hiện theo đơn khởi kiện, thì Tòa án giải thích cho người yêu cầu biết để họ làm đơn yêu cầu áp dụng phong tỏa tài sản khác hoặc áp dụng BPKCTT khác42. Nếu người yêu cầu vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình thì Thẩm phán không chấp nhận đơn yêu cầu của họ. m. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định (Điều 127 BLTTDS 2015) Cấm thực hiện một số hành vi nhất định là việc không cho thực hiện một số hành vi. Buộc thực hiện một số hành vi nhất định là việc bắt phải thực hiện một số hành vi nhất định. Căn cứ áp dụng trong trường hợp: có căn cứ cho thấy đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án đang được Tòa án giải quyết.

42 Xem thêm tại mục 7, tiểu mục 7.3 Nghị quyết 02/2005 ngày 27/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao (NQ 02/2005 - HĐTP TANDTC) về việc thi hành một số quy định tại chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS 2005.

Ngoài các biện pháp giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức và điểu khiển hành vi của mình cho cá nhân, tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; tạm đình chỉ thi hành quyết định sa thải người lao động thì các biện pháp cấm hoặc buộc thực hiện những hành vi nhất định còn bao hàm cả việc cấm hoặc buộc đương sự thực hiện những hành vi nhất định khác. Ví dụ như buộc một tờ báo mạng hay một cá nhân phải gỡ bài đăng vì ảnh hưởng đến vụ án khi đưa ra các thông tin sai lệch, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của đương sự trong vụ án. n. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ (Điều 124) Cấm xuất cảnh đới với người có nghĩa vụ là không cho người có nghĩa vụ trong vụ án được xuất cảnh đi nước ngoài. Căn cứ áp dụng: -

Thứ nhất, nếu có căn cứ cho thấy việc giải quyết vụ án có liên

quan đến nghĩa vụ của họ đối với Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. -

Thứ hai, việc xuất cảnh của họ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ

án, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc để bảo đảm việc thi hành án. Ví dụ: bà V. khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản với bà N. tại Tòa án. Trong quá trình giải quyết, tòa án nhiều lần triệu tập nhưng bà N không có mặt. Tháng 102015, biết bà N có ý định xuất cảnh, bà V yêu cầu Tòa án nhân dân áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cấm xuất cảnh đối với bà N. Tháng 10-2015, tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với bà N, cấm bà N xuất cảnh trong thời hạn 4 tháng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ

a. Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình (Điều 129) Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình là cấm người có hành vi bạo lực lực gia đình tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình. Nếu biện pháp đó là cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự của nạn nhân bạo lực gia đình theo quy định của Luật phòng chống bạo lực gia đình.

b. Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu 43 (Điều 130 BLTTDS 2015) Tạm dừng việc đóng thầu, phê duyệt danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng được áp dụng nếu quá trình giải quyết vụ án cho thấy việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.44 c. Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án (Điều 131 BLTTDS 2015) Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu bay để bảo đảm giải quyết vụ án dân sự mà vụ án đó do chủ sở hữu tàu bay, chủ nợ trong trường hợp tàu bay là tài sản bảo đảm, người bị thiệt hại do tàu bay đang bay gây ra hoặc người có quyền, lợi ích liên quan đối với tàu bay khởi kiện theo quy định của pháp luật về hàng không dân dụng Việt Nam. Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu biển trong các trường hợp sau đây: a) Tàu biển bị yêu cầu bắt giữ để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại hàng hải mà người yêu cầu bắt giữ tàu biển đã khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án; b) Chủ tàu là người có nghĩa vụ về tài sản trong vụ án đang giải quyết và vẫn là chủ tàu tại thời điểm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu biển; c) Người thuê tàu trần, người thuê tàu định hạn, người thuê tàu chuyến hoặc người khai thác tàu là người có nghĩa vụ về tài sản trong vụ án dân sự phát sinh từ khiếu nại hàng hải theo quy định của Bộ luật hàng hải Việt Nam và vẫn là người thuê tàu trần, người thuê tàu định hạn, người thuê tàu chuyến, người khai thác tàu hoặc là chủ tàu tại thời điểm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu biển; d) Tranh chấp đang được giải quyết trong vụ án phát sinh trên cơ sở của việc thế chấp tàu biển đó; đ) Tranh chấp đang được giải quyết trong vụ án liên quan đến quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu tàu biển đó. 43 Các hoạt động liên quan đến đấu thầu gồm: phê duyệt danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng. 44 Điều 94 Luật đấu thầu 2013 quy định về quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể như sau: “Khi khởi kiện, các bên có quyền yêu cầu Tòa án tạm dừng ngay việc đóng thầu; phê duyệt danh sách ngắn; phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; ký kết hợp đồng; thực hiện hợp đồng và các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác theo quy định của pháp luật.”

Ngoài những biện pháp khẩn cấp tạm thời này Tòa án có trách nhiệm giải quyết yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do luật khác quy định… 5.1.3. Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Căn cứ vào quy định tại Điều 111 BLTTDS 2015 thì những người có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT gồm có: -

Các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự;

-

Các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của người khác45 Để Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, những người có quyền nêu trên phải có yêu cầu về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong một số trường hợp đương sự không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa án vẫn có thể tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại khoản 3 Điều 111 và Điều 135 BLTTDS 2015 quy định Tòa án có quyền ra quyết định áp dụng đối với năm biện pháp khẩn cấp tạm thời gồm: - Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. - Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng. - Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm. - Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động. - Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động. Ngoài ra, trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có 45 Bao gồm: Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi

quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó (Tòa án chưa thụ lý vụ án). Áp dụng đối với các biện pháp như: - Biện pháp giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. - Biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng. - Biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm. - Biện pháp buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh

kiện vụ án lao động có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách; Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Xem thêm Điều 187 BLTTDS 2015)

nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

- Biện pháp tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động. - Biện pháp cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ. - Biện pháp cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình. - Biện pháp bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án. 5.1.4. Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm Việc áp dụng BPKCTT trong một số trường hợp có thể dẫn đến việc gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc người thứ ba, vì vậy việc buộc người yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện biện pháp bảo đảm rất có ý nghĩa: -

Thứ nhất, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng và

người thứ ba; Thứ hai, tránh được việc lạm dụng yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo Điều 136 BLTTDS 2015, người yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT phải nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ

chức tín dụng khác hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá khi yêu cầu Tòa án cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tòa án ấn định nhưng phải tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu. Quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 bao gồm: -

Kê biên tài sản đang tranh chấp.

-

Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.

-

Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.

-

Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà

nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ. thầu.

Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ. Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu

Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án Đối với những trường hợp do tình thế khẩn cấp, để bảo vệ chứng cứ và ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, thì thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại khoản này không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu. 5.1.5. Thẩm quyền, thủ tục áp dụng, thay đổi và huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời a. Thẩm quyền áp dụng, thay đổi và hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời Căn cứ Điều 112 BLTTDS 2015, tùy thuộc vào thời điểm yêu cầu áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc giai đoạn nào của quá trình tố tụng mà pháp luật quy định thẩm quyền xem xét, quyết định khác nhau. Việc xem xét áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên tòa thuộc thẩm quyền của một Thẩm phán, còn tại phiên tòa sẽ thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Các quy định về thẩm quyền áp dụng, thay đổi và hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở cấp phúc thẩm được thực hiện theo quy định tương tự như ở cấp sơ thẩm. b. Thủ tục áp dụng, thay đổi và hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời

Theo quy định tại Điều 133 BLTTDS 2015, yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được thể hiện dưới hình thức bằng văn bản và phải đáp ứng đầy đủ các nội dung chính theo quy định. Tùy theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó. Sau khi xem xét, nếu chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Thẩm phán chỉ được áp dụng đúng biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể mà người yêu cầu đã nêu trong đơn, nếu từ chối phải trả lời bằng văn bản. Tùy thuộc vào việc yêu cầu trước hay sau thời điểm thụ lý vụ việc mà trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định khác nhau. Cụ thể, Điều 133 BLTTDS 2015 quy định như sau: - Thứ nhất, trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiên đồng thời với việc nộp đơn, trước khi vụ án được thụ lý: Đối với trường hợp này, Chánh án Tòa án phân công ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT. Nếu không chấp nhận phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. - Thứ hai, trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thực hiện sau khi vụ viêc được thụ lý và trước khi mở phiên tòa xét xử: Trong trường hợp này, Thẩm phán xem xét ra quyết định áp dụng trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện biện pháp bảo đảm. Nếu không chấp nhận phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết. - Thứ ba, Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện tại phiên tòa: Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử xem xét ra quyết định áp dụng BPKCTT ngay sau khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm. khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 136 của Bộ luật này. Việc thực hiện biện pháp bảo đảm được bắt đầu từ thời điểm Hội đồng xét xử ra quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm, nhưng người yêu cầu phải xuất trình chứng cứ về việc đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án; nếu không chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng xét xử phải thông báo ngay tại phòng xử án và ghi vào biên bản phiên tòa.

Khi BPKCTT đang áp dụng không còn phù hợp hoặc không còn đủ địều kiện để áp dụng thì có thể bị thay đổi, bổ sung thậm chí bị hủy bỏ. Biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ bị thay đổi, bổ sung trong trường hợp khi xét thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời đang được áp dụng không còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi hoặc áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời khác Liên quan đến căn cứ hủy bỏ biện pháp khẩn cấm tạm thời, khoản 1 Điều 138 BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm căn cứ hủy bỏ việc áp dụng BPKCTT so với 3 căn cứ của BLTTDS 2005. Bao gồm: -

Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị hủy bỏ;

-

Người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp

tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu; -

Nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của Bộ luật

dân sự; - Việc giải quyết vụ án được đình chỉ theo quy định của Bộ luật này; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng theo quy định của Bộ luật này; -

Căn cứ của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn;

-

Vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật Các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo quy định của Bộ luật này. BLTTDS 2015 đã khắc phục đươc những hạn chế đó của BLTTDS trước đây về căn cứ hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thủ tục thay đổi, bổ sung và hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện tương tự như trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trừ trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi đã có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Lúc này việc hủy bỏ biện pháp KCTT sẽ do thẩm phán được Chánh án của Tòa án đã ra quyết định áp dụng BPKCTT phân công giải quyết. Trong trường hợp huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, Toà án phải xem xét, quyết định để người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhận lại khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá bảo đảm, trừ trường hợp người yêu cầu Toà án áp

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường. 5.1.6. Hiệu lực của quyết định áp dụng, thay đổi và hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời Khác với các loại quyết định khác của Tòa án, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay để giải quyết kịp thời vụ án dân sự và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tòa án phải cấp hoặc gửi quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay sau khi ra quyết định cho người có yêu cầu, người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và Viện kiểm sát cùng cấp. Ví dụ, khi Tòa án quyết định áp dung BPKCTT cấm chuyển dịch tài sản đang tranh chấp, Tòa án sẽ gửi quyết định cho người yêu cầu áp dụng, người bị áp dụng, cơ quan Thi hành án dân sự, Viện kiểm sát cùng cấp và đặc biệt là các nơi đăng ký tài sản, phòng công chứng nơi sẽ thực hiện trực tiếp việc chuyển dịch tài sản tranh chấp. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Trường hợp quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì đương sự có nghĩa vụ nộp bản sao quyết định cho cơ quan quản lý đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. 5.1.7. Khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời Điều 140 BLTTDS 2015 quy định quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể bị khiếu nại, kiến nghị bởi đương sự, Viện kiểm sát. Cụ thể, trong trường hợp không đồng ý với quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc việc Thẩm phán không ra các quyết định vừa nêu, đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án. Thời hạn khiếu nại, kiến nghị là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc trả lời của Thẩm phán về việc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Nếu việc khiếu nại, kiến nghị thực hiện trước khi mở phiên tòa thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Chánh án Tòa án nơi ra quyết định và thuộc về Hội đồng xét xử nếu việc khiếu nại, kiến nghị được thực hiện tại phiên tòa. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án, Hội đồng xứt xử là quyết đinh cuối cùng. 5.1.8.

Trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng.

Để hạn chế thiệt hại cũng như tránh việc lạm quyền, bên canh quy định về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm, pháp luật TTDS còn quy định về trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng. Cụ thể tại Điều 113 BLTTDS 2015, theo đó người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình; trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường. Trường hợp Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; - Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu; - Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức, cá nhân; - Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng. Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Tòa án, mức bồi thường của Tòa án được thực hiện theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước. 5.2.

CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO CÁC VĂN BẢN TỐ TỤNG

5.2.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng là hoạt động tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự chuyển giao văn bản tố tụng đã được ban hành cho các chủ thể có liên quan để họ biết được về nội dung của văn bản đó hoặc báo cáo cho các chủ thể có liên quan về các hoạt động tố tụng cụ thể của các cơ quan này.

Tuy nhiên, có thể hiểu cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự như sau: -

Cấp văn bản tố tụng dân sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng giao cho

cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vụ việc dân sự văn bản tố tụng để họ sử dụng -

Tống đạt văn bản tố tụng dân sự là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền giao

cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vụ việc dân sự văn bản tố tụng, buộc họ phải nhận để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Giấy triệu tập đương sự: triệu tập lấy lời khai, triệu tập đến phiên toà xét xử, -

Thông báo văn bản tố tụng dân sự là việc cơ quan có thẩm quyền chuyển đến

đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và lợi ích liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự các thông tin về hoạt động tố tụng dân sự có liên quan tới quyền và nghĩa vụ của họ để họ biết về những vấn đề liên quan đến họ. Ví dụ: thông báo thụ lý, thông báo hoà giải, thông báo kháng cáo hoặc kháng nghị... Ý nghĩa của việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng: -

Đối với hoạt động tố tụng việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

đem lại sự thông suốt cho cả quá trình tố tụng, đảm bảo quá trình tố tụng được diễn ra thông suốt. Ví dụ: Muốn đưa vụ án ra xét xử thì phải tiến hành phiên hòa giải, muốn tiến hành phiên hòa giải thì phải có người tham gia phiên hòa giải, muốn có người tham gia phiên hòa giải thì Tòa án phải thông báo về phiên hòa giải thì Tòa án phải thông báo về phiên hòa giải để các bên có liên quan biết đến tham gia phiên hòa giải. -

Đối với cơ quan tiến hành tố tụng giúp các cơ quan này thực hiện tốt chức

trách, nhiệm vụ của mình. -

Đối với đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự: Cấp, tống đath,thông

báo các văn bản tố tụng dân sự bảo đảm quyền được thông tin, quyền được biết và tham gia vào quá trình tố tụng, tạo điều kiện để đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự. 5.2.2. Các văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt, thông báo Các văn bản tố tụng phải cấp, tống đạt hoặc thông báo cho những người có liên quan đến vụ việc dân sự là những văn bản tố tụng liên quan đến các quyền và nghĩa vụ của họ. trên cơ sở đó, hiện nay có các văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt, thông báo được quy định tại Điều 171 BLTTDS năm 2015 bao gồm:

-

Thông báo, giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng dân sự.

-

Bản án, quyết định của Tòa án.

-

Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát; các văn bản của cơ quan thi

hành án dân sự. -

Các văn bản tố tụng khác mà pháp luật có quy định.

Một số loại văn bản tố tụng phổ biến cụ thể: -

Các loại quyết định: Quyết định tạm đình chỉ, Quyết định đình chỉ,

Quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự, quyết định xem xét tại chỗ, quyết định thay đổi áp dụng, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời... -

Các loại thông báo: thông báo thụ lý, thông báo hoà giải, thông báo

kháng cáo hoặc kháng nghị... xử...

Giấy triệu tập đương sự: triệu tập lấy lời khai, triệu tập đến phiên toà xét

-

Giấy mời: mời Hội thẩm nhân dân, mời Kiểm sát viên tham gia phiên toà

Trường hợp cơ quan ban hành văn bản tố tụng hay người có thẩm quyền của cơ quan này không thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo thì những người tham gia tố tụng hoặc người có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự có quyền yêu cầu họ cấp, tống đạt hoặc thông baó cho mình các văn bản này theo thủ tục và trong thời hạn quy định. Nếu không đáp ứng thì có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền của các cơ quan này hay cơ quan quản lí cấp trên của cơ quan đó giải quyết. 5.2.3. Phương thức và thủ tục cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng Hiện nay có các phương thức cấp, tống đạt và thông báo các văn bản tố tụng sau đây: -

Cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp, qua dịch vụ bưu chính hoặc người thứ

ba được ủy quyền thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo. -

Cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử theo yêu cầu của

đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. -

Niêm yết công khai.

5.2.3.1.

Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các phương thức khác mà pháp luật quy định46. Thủ tục cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp

Thủ tục cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp được thực hiện theo quy định tại các Điều 175, 177, 178 BLTTDS năm 2015. Theo đó, người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng phải trực tiếp chuyển giao cho người được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng có liên quan. Người được cấp, tống đạt, thông báo phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày họ được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng. -

Thủ tục cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho cá nhân

Văn bản tố tụng được cấp, tống đạt, thông báo đến địa chỉ mà các đương sự đã gửi cho Tòa án theo phương thức đương sự yêu cầu hoặc tới địa chỉ mà các đương sự đã thỏa thuận và đề nghị Tòa án liên hệ theo địa chỉ đó. Người được cấp, tống đạt, thông báo là cá nhân thì văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp cho họ. Đương sự phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng. Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo đã chuyển đến nơi cư trú mới và đã thông báo cho Tòa án việc thay đổi nơi cư trú thì phải cấp, tống đạt, thông báo theo địa chỉ nơi cư trú mới của họ. Đương sự phải ký nhận hoặc điểm chỉ vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng. Nếu họ không thông báo cho Tòa án biết về việc thay đổi địa chỉ nơi cư trú và địa chỉ nơi cư trú mới thì Tòa án thì Tòa án phải niêm yết công khai khoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng để đương sự biết. Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo từ chối nhận văn bản tố tụng thì người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo phải lập biên bản trong đó nêu rõ lý do của việc từ chối, có xác nhận của đại diện tổ dân phố hoặc Công an xã, phường, thị trấn về việc người đó từ chối nhận văn bản tố tụng. Biên bản phải được lưu trong hồ sơ vụ án. Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt thì người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo phải lập biên bản và giao cho người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng nơi cư trú với họ hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc để thực hiện việc ký nhận hoặc điểm chỉ và yêu cầu người này

46 Xem Điều 474, Chương XXXVIII Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt, thông báo. Biên bản phải được lưu trong hồ sơ vụ án. Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt ở nơi cư trú mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ nơi cư trú mới của họ thì người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo phải lập biên bản về việc không thực hiện được việc cấp, tống đạt, thông báo, có xác nhận của đại diện tổ dân phố hoặc Công an xã, phường, thị trấn; đồng thời, thực hiện thủ tục niêm yết công khai văn bản cần tống đạt. Biên bản phải được lưu trong hồ sơ vụ án. - Thủ tục cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo là cơ quan, tổ chức thì văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những người này ký nhận. Trường hợp cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt, thông báo có người đại diện tham gia tố tụng hoặc cử người đại diện nhận văn bản tố tụng thì những người này ký nhận văn bản tố tụng đó. Ngày ký nhận là ngày được cấp, tống đạt, thông báo. 5.2.3.2. Thủ tục niêm yết công khai Trong những trường hợp không thể tống đạt trực tiếp thì phải niêm yết công khai các văn bản tố tụng, phương thức này chỉ được thực hiện khi không rõ tung tích của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo hoặc để thực hiện được việc cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp. Điều kiện niêm yết công khai được quy định tại Điều 179 BLTTDS 2015. Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng do Tòa án trực tiếp hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo được thực hiện theo thủ tục sau đây: -

Niêm yết bản chính tại trụ sở Tòa án, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc

nơi cư trú cuối cùng của cá nhân, nơi có trụ sở hoặc trụ sở cuối cùng của cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt, thông báo; -

Niêm yết bản sao tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của cá nhân, nơi có

trụ sở hoặc trụ sở cuối cùng của cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt, thông báo; -

Lập biên bản về việc thực hiện thủ tục niêm yết công khai, trong đó ghi rõ ngày,

tháng, năm niêm yết.

-

Thời hạn niêm yết công khai văn bản tố tụng là 15 ngày, kể từ ngày niêm yết.

5.2.3.3. Thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng Điều kiện để thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng được quy định tại Điều 180 BLTTDS năm 2015, theo đó:

-

Việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng được thực hiện khi pháp

luật có quy định hoặc có căn cứ xác định là việc niêm yết công khai không bảo đảm cho người được cấp, tống đạt, thông báo nhận được thông tin về văn bản cần được cấp, tống đạt, thông báo. -

Việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng có thể được thực hiện nếu

có yêu cầu của các đương sự khác. Trong trường hợp này, lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng do đương sự có yêu cầu thông báo chịu. -

Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng phải được đăng trên Cổng

thông tin điện tử của Tòa án, trên một trong các báo hàng ngày của Trung ương trong ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của Trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp. 5.3. THỜI HẠN TỐ TỤNG, THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VÀ THỜI HIỆU YÊU CẦU 5.3.1. Thời hạn tố tụng dân sự Để đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự một cách nhanh chóng, đảm bảo quyền và lợi của các bên trong quan hệ tố tụng, mỗi hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đều phải tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định. Khoản thời gian này được gọi là thời hạn tố tụng. Thời hạn tố tụng là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện hành vi theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Các loại thời hạn tố tụng gồm có: thời hạn giao nộp chứng cứ; thời hạn xem xét đơn khởi kiện; chuẩn bị xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án; thời hạn cấp, tống đạt và thông

báo các văn bản tố tụng; thời hạn khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong TTDS… Để đảm bảo được việc giải quyết các vụ án dân sự, các thời hạn tố tụng nói chung đều được pháp luật quy định cụ thể như thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn kháng cáo, kháng nghị… Ngoài ra, thời hạn cũng có thể được các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ấn định trong khuôn khổ quy định của pháp luật tố tụng khi cần thiết như thời hạn giao nộp chứng cứ; thời hạn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện v.v.. Thời hạn tố tụng có thể được xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể sẽ xảy ra. Cách tính thời hạn tố tụng, thời điểm bắt đầu, kết thúc thời hạn tố tụng được Điều 182 BLTTDS năm 2015 quy định, áp dụng theo các quy định tương ứng của BLDS (Điều 144 đến Điều 148 BLDS năm 2015) Tuy vậy thời hạn tố tụng dân sự so với thời hạn dân sự cũng có những khác biệt nhất định. Thời hạn dân sự có thể do pháp luật quy định hoặc do các đương sự thỏa thuận. Thời hạn tố tụng chỉ do pháp luật quy định hoặc do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tô tụng ấn định theo quy định của pháp luật, các đương sự và người khác nói chung không có quyền thỏa thuận xác lập thời hạn tố tụng. 5.3.2. Thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu 5.3.2.1. Thời hiệu khởi kiện Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, trước hết được xác định theo quy định trong các văn bản pháp luật nội dung như: BLDS 2015, Bộ luật lao động, Luật thương mại 2005, Luật hôn nhân và gia đình v.v… Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu khởi kiện vụ án đối với một số tranh chấp được quy định như sau: Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng (Điều 129); thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 588)… là ba năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Thời hiệu để người yêu cầu chia di sản thừa kế (Điều 623) là ba mươi năm đối với bất động sản, mười năm đối với động sản kể từ thời điểm mở thừa kế, thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là hai năm, kể từ thời điểm

quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm (Điều 319 Luât thương mại 2005), …. Thời điểm để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Theo Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2015, không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong các trường hợp sau đây: -

Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn liền với tài sản; Ví dụ tranh chấp về

xác định tác giả của một bài hát, tác phẩm văn học, nghệ thuật. -

Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có quy

định khác; Ví dụ: Tranh chấp ai có quyền sở hữu nhà ở; nếu có khởi kiện thì Tòa án thụ lý vụ án; việc chấp nhận hay không phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai;

-

-

Các trường hợp

khác do luật quy định. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (khoản 1 Điều 154 BLTTDS 2015). Tuy vậy trong một số trường hợp cụ thể, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự có thể được tính bắt đầu từ một sự kiện pháp lý khác như thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa, cưỡng ép tính từ ngày người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép (Điều 132 BLDS 2015); thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế được tính từ thời điểm mở thừa kế (Điều 623 BLDS năm 2015) v.v.. Ngoài ra, thời hiệu khởi kiện cũng có thể bắt đầu lại khi xảy ra những sự kiện pháp lý nhất định, được quy định tại Điều 157 BLDS năm 2015, bao gồm: -

Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với

người khởi kiện; -

Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình

đối với người khởi kiện; -

Các bên đã tự hòa giải với nhau.

Trong những trường hợp này thời hiệu khởi kiện được tính lại kể từ ngày tiếp theo ngày xảy ra sự kiện.

5.3.2.2. Thời hiệu yêu cầu Thời hiệu yêu cầu là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân sự, lợi ích công cộng, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luạt có quy định khcs (khoản 2Điều 154 BLDS 2015). Tùy theo từng loại việc mà pháp luật quy định thời điểm đương sự được yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự khác nhau: Ví dụ như: thời điểm phát sinh quyền yêu cầu tòa án công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là thời điểm bản án, quyết đinh dân sự của Tòa án nước ngoài có hiệu lực thi hành (Điều 432 và Điều 444 BLTTDS năm 2015). Hay thời điểm phst sịnh quyền yêu cầu Tòa án xem xét lại quyết định của Trọng tài là ngày nhận được quyết định của hội đồng trọng tài (Điều 69 Luật trọng tài thương mại 2010) Trên thực tế, do những nguyên nhân khác nhau mà việc khởi kiện, yêu cầu có thể không thực hiện được trong thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, tại Điều 156 BLDS 2015 quy đinh các trường hợp thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự, bao gồm: -

Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi

kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu. -

Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có

quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; -

Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn

trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây: Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân; Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: So sánh biện pháp kê biên tài sản đang tranh chấp và phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ

Câu 2: Lấy ví dụ và phân tích các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau: a. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác (khoản 9 Điều 114, BLTTDS 2015) b. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định (khoản 12 Điều 114 BLTTDS 2015) c. Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án (khoản 16 Điều 114 BLTTDS 2015 Câu 3: Khẳng định sau đây đúng hay sai ? Giải thích ? a. Chỉ được áp dụng một biện pháp khẩn cấp tạm thời khi giải quyết một tranh chấp dân sự tại Tòa án.  Sai, vì được áp dụng nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời được, căn cứ K1Đ111, BLTTDS 2015 b. Biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên tài sản đang tranh chấp chỉ được áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp  Đúng, vì đây là là loại tài sản kê biên tranh chấp c. Biện pháp khẩn cấp tạm thời việc phong tỏa tài khoản tại ngân hàng áp dụng đối với toàn bộ giá trị tài khoản của người có nghĩa vụ



d. Phong tỏa tài sản nơi gửi giữ là việc cô lập không cho chuyển dịch tài sản của người có nghĩa vụ đang do họ giữ e. Biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ chỉ áp dụng đối với người nước ngoài có nghĩa vụ. f. Chỉ có nguyên đơn mới có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích ích hợp pháp của mình g. Tòa án chỉ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi thụ lý vụ án  Sai, căn cứ K3Đ111, BLTTDS 2015, vì tòa án cũng có thể tự mình đưa ra biện pháp khẩn cấp tạm thời chứ không cần phải có yêu cầu của đương sự h. Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt buộc phải thực hiện biện pháp bảo đảm  Sai, vì người yêu cầu tòa án áp dụng 1 trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 6,7,8,10,11 thì mới thực hiện biện pháp khẩn cấp tạm thời căn cứ K3Đ136, BLTTDS 2015 i. Đối với vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế mà nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án. j. Tranh chấp đòi lại tài sản cho vay không áp dụng thời hiệu khởi kiện k. Tòa án không được quyền từ chối thụ lý vụ án dân sự vì lý do hết thời hiệu khởi kiện. Câu 4: Ông A có 2 ngôi nhà tại Đà Nẵng, 1 ngôi nhà ở đường Bạch Đằng và 1 ngôi nhà ở đường Nguyễn Văn Linh. Ngôi nhà ở Bạch Đằng ông A đã chuyển nhượng cho B, hai bên đã lập hợp đồng và hợp đồng đã được công chứng, phía ông B đã giao đủ tiền nhưng ông A không giao nhà. Hai bên phát sinh tranh chấp ong B đã khởi kiện ra

Tòa án, Tòa án đang thụ lý giải quyết thì A có hành vi phá hoại 1 trong số vật dụng của căn nhà. Hỏi: a. Ông B có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp nào? b. Giả sử ông A có hành vi rao bán ngôi nhà ở Bạch Đằng thì ông B phải yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nào c. Ông B đã yêu cầu áp dụng biện pháp kê biên đối với ngôi nhà ở đường Nguyễn Văn Linh. Hỏi yêu cầu này của ông B có được Tòa án chấp nhận không? Tại sao? Câu 5: Ông A chết ngày 1995. Vợ ông A là bà B chết ngày 2004. Ông bà A, B có các con là M, N, P và để lại tài sản là căn nhà trên diện tích đất 200m2. Hiện tại, toàn bộ tài sản trên của ông bà A, B là do M quản lý, sử dụng. Vì được biết anh M đang rao bán nhà đất trên cho X với giá 1.5 tỷ đồng nên tháng 7/2017, P đã khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản là nhà đất mà ông bà A, B để lại. Hỏi: a. Hãy xác định thời hiệu khởi kiện đối với vụ việc trên b. Giả sử trước đó vào năm 2015 P khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản thừa kế là nhà đất của ông bà A, B nhưng bị Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết theo BLDS năm 2005. Sau đó đến 7/2017 P lại tiếp tục khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của ông bà A, B. Xác định thời hiệu khởi kiện trong trường hợp này. c. N, P đã nộp đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với căn nhà trên. Hãy xác định biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thể áp dụng và thủ tục áp dụng biện pháp đó?

Chương 6 ÁN PHÍ, LỆ PHÍ VÀ CHI PHÍ TỐ TỤNG  Mục tiêu Sau khi tìm hiểu về nội dung chương 6: Án phí, lệ phí và chi phí tố tụng sinh viên có khả năng hiểu và nắm được những nội dung căn bản: -

Xác định được ai là người phải chịu án phí và chi phí tố tụng đối với

từng vụ việc cụ thể -

Biết được cách tính tạm ứng án phí, lệ phí; tính được án phí và lệ phí đối

với các vụ việc dân sự sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời phân biệt được trường hợp nào áp dụng án phí có giá ngạch trường hợp nào không có giá ngạch. -

Hiểu và tính được chi phí tố tụng khác trong tố tụng như chí phí giám

định, định giá tài sản, chi phí mời luật sư, người làm chứng, chi phí ủy thác tư pháp… Xác định được đối tượng phải chịu chi phí tố tụng trong những trường hợp cụ thể này.  Nội dung -

Án phí và lệ phí Các chi phí tố tụng khác

+ Chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài +Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ

+Chi phí

giám định

+Chi phí định giá tài sản +Chi phí làm chứng +Chi phí phiên dịch, luật sư  Phương pháp Để giúp sinh viên hiểu rõ vấn đề giảng viên sử dụng phương pháp gọi tên vấn đề, kết hợp với phương pháp thuyết giảng. Bên cạnh đó, giảng viên sử dụng phương pháp đặt các câu hỏi phát vấn để kiểm tra kiến thức cũ và đánh giá khả năng nắm bắt bài học của người học. Ngoài ra giảng viên xây dựng các bài tập tình huống để sinh viên vận dụng tính án phí sau khi học lý thuyết.  Tài liệu học tập -

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

-

Bộ luật dân sự năm 2015

-

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

-

Luật đất đai 2013…

-

Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức, thu, miễn, giảm,

thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016

6.1.

ÁN PHÍ VÀ LỆ PHÍ

6.1.1. Khái niệm và các loại án phí, lệ phí a. Khái niệm án phí, lệ phí Việc giải quyết các vụ việc dân sự đòi hỏi phải có những chi phí vật chất nhất định. Trong khi đó, nhà nước phải chi phí cho việc Tòa án tiến hành giải quyết các vụ việc dân sự là lo lỗi của đương sự hoặc vì lời ích của đương sự. Do vậy, pháp luật quy định đương sự phải chịu một phần số tiền Nhà nước đã chi cho Tòa án thực hiện các hoạt động đó, các khoản này được gọi là án phí và lệ phí. Án phí dân sự là số tiền đương sự phải nộp ngân sách nhà nước khi vụ án dân sự được Tòa án giải quyết Lệ phí là số tiền đương sự phải nộp ngân sách Nhà nước khi Tòa án giải quyết việc dân sự theo yêu cầu của họ Các đương sự phải chịu án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật đối với từng loại vụ việc, trên cơ sở lợi ích và mức độ lỗi của họ trong quan hệ pháp luật Tòa án giải quyết. ngoài ra trong trường hợp hoàn cảnh đương sự có khó khăn thì tùy mức độ sẽ được Tòa án cho miễn nộp một phần hoặc toàn bộ án phí, lệ phí. Ở một số vụ việc dân sự, Nhà nước còn quy định miễn án phí, chi phí cho đương sự. Hiện nay, việc thu án phí, lệ phí được thực hiện theo quy định của BLTTDS năm 2015 và quy định của Nghị quyết Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức, thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án (sau đây gọi tắc là Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14) b.

Các loại án phí, lệ phí dân sự

Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự (Điều 143 BLTTDS năm 2015) Điều 3 và Điều 4 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 các loại án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật bao gồm: án phí, lệ phí dân sự sơ thẩm và án phí, lệ phí dân sự phúc thẩm. Án phí dân sự bao gồm án phí giải quyết vụ án tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động; Lệ phí dân sự bao gồm lệ phí nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự, lệ phí giải quyết việc dân sự, lệ phí cấp bản sao bản án, quyết định và các giấy tờ khác của Tòa án và các khoản lệ phí khác theo quy định pháp luật Đối với thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, pháp luật quy định không thu án phí khi Tòa án tiến hành xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, bởi lẽ việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là nhằm sửa chữa những sai lầm, thiếu sót trong bản án, quyết định bị kháng nghị hoặc khôi phục lại vụ án để xét xử lại do thiếu tình tiết mới. Tuy nhiên, án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm được tuyên trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị sẽ được quyết định lại khi Tòa án giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản án, quyết định để xét xử lại vụ án hoặc đình chỉ giải quyết vụ án. 6.1.2. Mức án phí, lệ phí Mức án phí, lệ phí do pháp luật quy định căn cứ chủ yếu vào chi phí trung bình về việc lập hồ sơ, giải quyết vụ việc dân sự, mức độ đơn giản hoặc phức tạp của vụ việc dân sự mà Tòa án giải quyết. Mức án phí dân sự sơ thẩm pháp luật quy định có hai loại: loại thu theo một số tiền nhất định (không có giá ngạch) và loại thu theo tỷ lệ giá trị tài sản (có giá ngạch). Vụ án dân sự không có giá ngạch là vụ án mà trong đó yêu cầu của đương sự không phải là một số tiền hoặc không thể xác định được giá trị bằng một số tiền cụ thể. Vụ án dân sự có giá ngạch là vụ án mà trong đó yêu cầu của đương sự là một số tiền hoặc là tài sản có thể xác định được bằng một số tiền cụ thể. Ví dụ: A kết hôn với B và có 3 người con là C, D. Sau đó, B chết để lại tài sản chung của 2 vợ chồng là 20 tỷ đồng. Có tranh chấp xảy ra về vấn đề chia tài sản nên D yêu cầu Tòa án phân chia di sản. Trường hợp này thuộc tranh chấp dân sự có giá ngạch thu theo tỷ lệ giá trị tài sản thừa kế tương ứng với giá trị phần tài sản mà người thừa kế được chia, được hưởng trong khối di sản thừa kế (Điểm a, khoản 7, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14) . Cụ thể: Tài sản chung của A và B là 20 tỷ đồng, vậy A = B = 10 tỷ đồng. B chết không để lại di chúc, tài sản chia thừa kế theo pháp luật. Hàng thừa kế thứ nhất: A=C=D=10/3 = 3,33 tỷ đồng Vậy án phí mỗi người phải chịu tương ứng: A=C=D= 72 triệu + (2% x 1,33 tỷ đồng)47 = 98 triệu Mức lệ phí sơ thẩm yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự được pháp luật quy định thu theo một mức tiền nhất định tùy theo tính chất công việc mà Tòa án phải thực hiện theo yêu cầu cuả đương sự. Mức án phí, lệ phí phúc thẩm cũng được thu theo một số tiền nhất định. 47 Xem Danh mục án phí, lệ phí tòa án (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016)

Ví dụ: Vợ chồng yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì vợ, chồng có thể thỏa thuận về việc nộp tiền tạm ứng lệ phí Tòa án, nếu không thỏa thuận được mỗi người phải chịu 50% lệ phí sơ thẩm (khoản 1, Điều 35 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14). chịu.

Tương ứng lệ phí yêu cầu = 300 nghìn x ½ = 150 nghìn đồng mỗi người phải

Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án quyết định mức án phí, lệ phí căn cứ vào quy định của pháp luật và trên cơ sở giá trị tài sản của vụ việc dân sự mà các đương sự đã thỏa thuận hoặc giá trị tài sản do hội đồng định giá tài sản quyết định 6.1.3. Tiền tạm ứng án phí, lệ phí Để đảm bảo trang trải những chi phí ban đầu cho việc giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời bảo đảm việc khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự có căn cứ, pháp luật quy định nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí. Theo đó, những người có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phải nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí sơ thẩm, người kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí. Mức tiền tạm ứng án phí, lệ phí được xác định theo số tiền án phí, lệ phí tạm tính mà đương sự phải nộp trong các vụ việc dân sự. Người có nghĩa vụ phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm trong vụ án dân sự là nguyên đơn, bị đơn cơ yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, Người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí. Mức tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án dân sự không có giá ngạch bằng mức án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch. Mức tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án dân sự có giá ngạch bằng 50% mức án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch mà Tòa án dự tính theo giá trị tài sản có tranh chấp do đương sự yêu cầu giải quyết nhưng tối thiểu không thấp hơn mức án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án dân sự không có giá ngạch. Ví dụ: A nợ B 100 triệu đồng. B kiện A ra Tòa yêu cầu Tòa án buộc A trả lại toàn bộ số tiền. Tranh chấp giữa A và B được xác định là tranh chấp dân sự liên quan đến đòi lại tài sản. Mức tạm ứng án phí trong trường hợp này B phải nộp tương ứng = ½ x (5%*100.000.000) = 2.500.000 đồng

Người nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự có nghĩa vụ phải nộp tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự sơ thẩm. Mức tạm ứng lệ phí sơ thẩm giải quyết việc dân sự bằng mức lệ phí sơ thẩm giải quyết việc dân sự. Về thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí và lệ phí sơ thẩm trong các vụ việc dân sự được quy định như sau: - Nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn án phí hoặc được miễn nộp tiền tạm ứng án phí (Điều 195 BLTTDS năm 2015). - Người yêu cầu phải nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí. (Điều 363 BLTTDS năm 2015) Người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm, trừ trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc được miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của Nghị quyết này. Thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí và lệ phí phúc thẩm trong các vụ việc dân sự được quy định như sau: - Thời hạn người kháng cáo nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm là 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trư trường hợp có lý do chính đáng. (Điều 276 BLTTDS năm 2015, Điều 17 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14) - Thời hạn người kháng cáo nộp tiền tạm ứng lệ phí phúc thẩm là trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng lệ phí kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng (Điều 17 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14) Tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí được nộp cho cơ quan thi hành án có thẩm quyền để gửi vào tài khoản tạm giữ mở tại kho bạc nhà nước và được rút ra để thi hành án theo quyết định của Tòa án. 6.1.4. Nghĩa vụ nộp án phí, lệ phí sơ thẩm, phúc thẩm. 6.1.4.1. Nghĩa vụ nộp án phí, lệ phí sơ thẩm Nghĩa vụ chịu án phí, lệ phí sơ thẩm được quy định tại các điều 147, 149 BLTTDS năm 2015 và các Điều 26, 27, 37 đến 45 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Theo

đó nghĩa vụ nộp án phí, lệ phí sơ thẩm của đương sự được xác định theo nguyên tắc sau: - Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm. trường hợp yêu cầu của họ được chấp nhận thì đướng sự bị yêu cầu phải chịu án phí dân sự sơ thẩm - Mỗi bên đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo mức tương ứng với giá trị phần tài sản, phần di sản mà họ được hưởng, được chia trong trường hợp các bên dương sự không tự xác định được phần tài sản của mình trong khối tài sản chung, phần di sản mà mình được hưởng trong khối di sản thừa kế và có một trong các bên yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung, di sản thừa kế đó. - Trong vụ án ly hôn, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu 50% mức án phí. - Các đương sự trong vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về việc chia tài sản chung của vợ chồng thì ngoài việc chịu án phí dân sự sơ thẩm, còn phải chịu án phí đối với phần tài sản có tranh chấp như đối với vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia. - Người có nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ hoặc một lần theo quyết định của Tòa án phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch. - Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm - Trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm thì các đương sư vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như trường hợp xết xử cụ án đó. - Người yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự phải chịu lệ phí sơ thẩm không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận đơn yêu cầu của họ, trừ trường hợp không phải chịu lệ phí Tòa án hoặc được miễn nộp tiền lệ phí Tòa án theo quy định - Đối với yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì vợ, chồng có thể thỏa thuận về việc chịu lệ phí Tòa án, trừ trường hợp được miễn, hoặc không phải chịu lệ phí Tòa án theo quy định của pháp luật. Trường

hợp vợ, chồng không thỏa thuận được người có nghĩa vụ chịu lệ phí Tòa án thì mỗi người phải chịu 50% mức lệ phí Tòa án. - Người yêu cầu Tòa án cấp bản sao giấy tờ, sao chụp tài liệu phải nộp tiền lệ phí Tòa án. - Trong vụ án có đương sự được miễn nộp tiền án phí sơ thẩm thì đương sự khác vẫn phải nộp tiền án phí sơ thẩm mà mình phải chịu theo bản án, quyết định của Tòa án. Khi tiến hành hòa giải, Tòa án xác định số tiền án phí, lệ phí đương sự được thỏa thuận với nhau về việc ai phải chịu án phí, lệ phí. Trong trường hợp đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc ai phải chịu án phí, lệ phí thì Tòa án sẽ căn cứ vào quy định về án phí, lệ phí để quyết định só tiền án phí, lệ phí mà mỗi đương sự phải nộp. 6.1.4.2. Nghĩa vụ nộp án phí, lệ phí phúc thẩm Theo quy định tại Điều 148 và 149 BLTTDS năm 2015 và các Điều 29, 37 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Theo đó, nghĩa vụ nộp án phí, lệ phí phúc thẩm dược hiểu như sau: - Đương sự kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nếu Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí phúc thẩm. - Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo thì đương sự kháng cáo liên quan đến phần bản án, quyết định phải sửa không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định lại nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm trong bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm. - Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo để xét xử sơ thẩm lại thì đương sự kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; nghĩa vụ chịu án phí được xác định lại khi giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm. - Đương sự rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa phúc thẩm phải chịu 50% mức án phí dân sự phúc thẩm. Đương sự rút kháng cáo tại phiên tòa phúc thẩm phải chịu toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm. - Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm thì đương sự kháng cáo phải chịu toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm, về án phí dân sự sơ thẩm, nếu các đương sự tự thỏa thuận được với nhau thì các đương sự chịu án phí dân sự sơ thẩm theo thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì

Tòa án xác định lại án phí dân sự sơ thẩm theo nội dung thỏa thuận về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm. - Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm và được bị đơn đồng ý thì các đương sự vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu 50% mức án phí dân sự phúc thẩm. Trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy, sửa bản án hoặc quyết định sơ thẩm thì tùy trường hợp, Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên hoặc quyết định lại số tiền án phí, lệ phí sơ thẩm đương sự phải chịu 6.1.5. Miễn, giảm án phí, lệ phí Do tính chất của từng loại vụ việc cụ thể và điều kiện kinh tế đương sự, trong một số trường hợp pháp luật quy định miễn, giảm việc nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí và tiền án phí, lệ phí cho họ. Ví dụ: Người lao động khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; Người gặp sự kiện bất khả kháng dẫn đến không có đủ tài sản để nộp tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú thì được Tòa án giảm 50% mức tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án mà người đó phải nộp… Ngoài ra, đối với cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thì pháp luật còn quy định không phải nộp tiền án phí, lệ phí. Hiện nay, việc miễn giảm án phí, lê phí được thực hiện theo quy định tại Điều 150 BLTTDS năm 2015 và các Điều từ 11 đến 16 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. 6.2.

CÁC CHI PHÍ TỐ TỤNG KHÁC

6.2.1. Chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, có thể xảy ra trường hợp Tòa án phải tiến hành thu thập, cung cấp chứng cứ, tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu, triệu tập người làm chứng, người giám định,… ở nước ngoài nhằm giúp Tòa án làm sáng tỏ vụ việc, trong trường hợp này Tòa án phải thực hiện ủy thác tư pháp ra nước ngoài để yêu cầu cơ quan, tổ chức cơ thẩm quyền ở nước ngoài tiến hành những công việc trên.

Vậy, chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho việc thực hiện ủy thác tư pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam và của nước được yêu cầu ủy thác tư pháp. Cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự làm phát sinh yêu cầu ủy thác tư pháp ra nước ngoài thì phải nộp tiền lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài theo quy định. Cụ thể, nếu các bên đương sự không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác thì nghĩa vụ chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài được xác định như sau: - Đương sự phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài nếu yêu cầu giải quyết vụ việc của họ không dược Tòa án chấp nhận. - Trường hợp yêu cầu Tòa án chia tài sản chung thì mỗi người được chia tài sản phải chịu phần chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài tương ứng với tỷ lệ giá trị phần tài sản mà họ được chia. - Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải nộp chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài. - Trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án quy định do nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc nguyên đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì nguyên đơn phair chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài - Trường hợp đình chỉ giải quyết việc phúc thẩm do người kháng cáo hoặc được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt thì người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài. - Đối với các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án khác thì người yêu cầu phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài. - 6.2.2. Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là số tiền cần thiết và hợp lí phải chi trả cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ căn cứ vào quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án cảm thấy cần thiết và quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ thì nguyên đơn, người yêu cầu giải quyết việc dân sự, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. Khi tuyên án, Tòa án sẽ quyết định người có nghĩa vụ chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, cụ thể được xác định như sau:

- Đương sự phải chịu cho phí xem xét, thẩm định tại chỗ nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận. - Trường hợp yêu cầu Tòa án chia tài sản chung thì mỗi người được chia tài sản phải chịu phần chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ theo tỷ lệ giá trị phần tài sản mà họ được chia. - Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải nộp chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thi mỗi bên đương sự chịu một nủa chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. - Trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án quy định do nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc nguyên đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì nguyên đơn phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. - Trường hợp đình chỉ giải quyết việc phúc thẩm do người kháng cáo hoặc được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt thì người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. - Đối với các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án khác thì người yêu cầu phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. 6.2.3. Chi phí giám định Chi phí giám định là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho công việc giám định và do tổ chức, cá nhân thực hiện việc giám định được tính căn cứ vào quy định pháp luật. Về nguyên tắc nghĩa vụ nộp tiền chi phí giám định thuộc về người có lỗi trong việc giám định. Do vậy, trong trường hợp các bên đương sự không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác thì nghĩa vụ nộp tiền chi phí giám định được xác định theo các nguyên tắc sau: - Người yêu cầu trưng cầu giám định phải chịu chi phí giám định, nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của họ không có căn cứ. Trường hợp kết quả giám định chứng minh yêu cầu của họ chỉ có căn cứ một phần thì họ chỉ phải nộp chi phí giám định đối với phần yêu cầu của họ đã được chứng minhh là không có căn cứ. - Người không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định phải nộp tiền chi phí giám định nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu trưng cầu giám định là có căn cứ. Trường hợp kết quả giám định chứng minh yêu cầu của họ chỉ có căn cứ một phần thì người không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định phải nộp chi phí giám định đối với phần yêu cầu đã được chứng minhh là có căn cứ.

- Trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án do nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc nguyên đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì nguyên đơn phải chịu chi phí giám định. Trường hợp đình chỉ giải quyết việc xét xử phúc thẩm do người kháng cáo hoặc được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt thì người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải chịu chi phí giám định; - Trường hợp người tự mình yêu cầu giám định nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người đó là có căn cứ thì người thua kiện phải chịu chi phí giám định. Trường hợp kết quả giám định chứng minh yêu cầu giám định của họ chỉ có căn cứ một phần thì họ phải nộp chi phí giám định đối với phần yêu cầu của họ đã được chứng minh là không có căn cứ; - Đối với các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án khác thì người yêu cầu trưng cầu giám định phải chịu chi phí giám định. 6.2.4. Chi phí định giá tài sản Chi phí định giá tài sản là số tiền phải trả cho việc định giá tài sản nhằm giải quyết vụ việc dân sự và do Hội đồng định giá tinhs căn cứ vào quy định pháp luật. Hiện nay, định nghĩa chi phí định giá, thẩm định giá tài sản, nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản, việc xử lý tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản, nghĩa vụ nộp tiền định giá, thẩm định giá tài sản được quy định tại các điều từ Điều 163 đến Điều 166 và Điều 169 BLTTDS năm 2015. 6.2.5. Chi phí làm chứng Người làm chứng khi được tòa án triệu tập đến tham gia tố tụng thì họ được trả thù lao và các chi phí cho thực hiện làm chứng. Các chi phí này được gọi là chi phí làm chứng. Như vậy, chi phí làm chứng là số tiền chi trả cho công việc làm chứng trong giải quyết vụ việc dân sự. Các chi phí này bao gồm chi phí đi lại. ở, tiền thù lao cho người làm chứng. Đương sự phải chịu cho phí làm chứng. Tòa án quyết định đương sự phải chịu chi phí làm chứng theo nguyên tắc sau: - Người đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng phải chịu tiền chi phí cho người làm chứng nếu lời làm chứng phù hợp với sự thật nhưng không đúng với yêu cầu của người đề nghị.

- Trường hợp lời làm chứng phù hợp với sự thật và đúng với yêu cầu của người đề nghị triệu tập người làm chứng thì chi phí này do đương sự có yêu cầu độc lập với yêu cầu của người đề nghị chịu. 6.2.6.

Chi phí phiên dịch, luật sư

Chi phí cho người phiên dịch là khoản tiền phải trả cho người phiên dịch trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo thỏa thuận của đương sự với người phiên dịch hoặc theo quy định của pháp luật. Chi phí cho luật sư là khoản tiền phải trả cho luật sư theo thỏa thuận của đương sự với luật sư trong phạm vi quy định của tổ chức hành nghề luật sư và theo quy định của pháp luật. Chi phí cho người phiên dịch, luật sư do người có yêu cầu chịu, trừ trường hợp các bên đương sự có thỏa thuận khác. Trường hợp Tòa án yêu cầu người phiên dịch thì chi phí cho người phiên dịch do Tòa án trả. Câu hỏi ôn tập

Câu 1: Hãy cho biết có trường hợp nào chi phí luật sư không do người yêu cầu chịu mà do bên thua kiện chịu hay không ? Câu 2: Bà B nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Ông C với diện tích 300m2 với giá 500 triệu đồng vào năm 2015. Sau khi nhận chuyển nhượng, gia đình ông D ở diện tích đất giáp ranh với bà B có hành vi lấn chiếm và trồng cây lên diện tích đất của bà B với diện tích đo đạt được là 52m2 . Sau nhiều lần đòi đất, đến năm 2017 bà B khởi kiện yêu cầu ông C phải trả lại diện tích đất 52m2 đã chiếm đoạt bất hợp pháp của bà. Tính án phí sơ thẩm trường hợp trên? Câu 3: Năm 2000. Anh A và chị B kết hôn và sinh được hai người con là M và N. Đến năm 2015, do mâu thuẫn kéo dài trong thời gian sống chung nên anh A khởi kiện yêu cầu lu hôn chị B. Khi chia tài sản chung, anh A và chị B tranh chấp ngôi nhà có giá trị 900.000.000 đồng cùng với 460.000.000 đồng trong sở tiết kiệm. Tòa án cấp sở thẩm quyết định mỗi người được hưởng ½ giá trị ngôi nhà và ½ số tiền trong sổ tiết kiệm.

Tính tiền tạm ứng án phí và án phí trong trường hợp này? Chương 7 THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TOÀ ÁN CẤP SƠ THẨM  Mục tiêu Sau khi tìm hiểu về nội dung chương 7: Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sở thẩm sinh viên có khả năng hiểu và nắm được những nội dung căn bản: - Biết được chủ thể nào có quyền khởi kiện trong các vụ án dân sự, hình thức khởi kiện ra sao và phạm vi khởi kiện pháp luật quy định như thế nào - Nắm được các căn cứ, các giai đoạn để Tòa án thụ lý một vụ án dân sự, những trường hợp Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện; yêu cầu đương sự sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; chuyển vụ án cho Tòa án khác giải quyết - Nắm được thời hạn quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử một vụ án dân sự. Cách thức tiến hành một phiên hòa giải đặc trưng của dân sự, các trường hợp phải đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án cụ thể. - Giúp sinh viên biết được các thủ tục và giai đoạn để mở một phiên tòa xét xử sơ thẩm trong một vụ án, biết được quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng trong một vụ án dân sự. Qua đó vận dụng để tiến hành một phiên tòa giả định xét xử một vụ án dân sự trong lớp.  Nội dung - Khởi kiện vụ án dân sự - Thụ lý vụ án dân sự và trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự - Chuẩn bị xét xử vụ án dân sự, hòa giải, tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự - Phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự  Phương pháp Để giúp sinh viên hiểu rõ vấn đề giảng viên đi sử dụng phương pháp gọi tên vấn đề, kết hợp với phương pháp thuyết giảng. Bên cạnh đó, giảng viên sử dụng phương pháp đặt các câu hỏi phát vấn để kiểm tra kiến thức cũ và đánh giá khả năng nắm bắt bài học của người học. Ngoài ra đối với chương học này giảng viên sẽ áp dụng phương pháp mô phỏng một phiên tòa giả định trên lớp để sinh viên có thể vận dụng ngay sau nội dung bài học.

 Tài liệu học tập - Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017, hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án. - Nghị quyết số: 01/2017/NQ-HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự do Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. - Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.

7.1.

KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ

7.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự Khởi kiện là hành vi khởi xướng quá trình tố tụng dân sự, không có hành vi khởi kiện thì cũng không phát sinh các bước tố tụng tiếp theo tại Tòa án. Trên cơ sở nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, Tòa án không tư mình đưa ra các tranh chấp, yêu cầu trong xã hội ra giải quyết, mà quá trình Tố tụng dân sự chỉ được khởi động khi có yêu cầu của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự Tóm lại, Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Tuy nhiên, trong thực tiễn, không phải mọi tranh chấp đều dẫn đến một vụ kiện tại Tòa án. Khởi kiện thường là phương thức cuối cùng khi các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau như thương lượng, hòa giải không mang lại kết quả; trước khi khởi kiện, chủ thể quyền thường phải có sự cân nhắc về thời gian, chi phí theo đuổi vụ kiện và phải có được những chứng cứ ban dầu, cần thiết để chứng minh cho yêu cầu của mình.. 7.1.2.

Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự

7.1.2.1. Chủ thể khởi kiện Khái niệm “người khởi kiện” không đồng nhất với khái niệm “nguyên đơn”. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người giả thiết có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Người khởi kiện có thể chính là người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nhưng cũng có thể người khác khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Các trường hợp người khởi kiện không đồng thời là nguyên đơn được pháp luật tố tụng dân sự quy định rất hạn chế để đảm bảo quyền tự định đoạt của chủ thể quan hệ pháp luật dân sự. Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự là các chủ thể theo quy định của pháp luật được tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. các chủ thể ba gồm cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức đáp ứng được những điều kiện do pháp luật quy định. a. Điều kiện khởi kiện là cá nhân Cá nhân đó khi khởi kiện vụ án dân sự phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự và có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm trừ trường hợp khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận tức và điều khiển hành vi.

- Đối với cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ. - Đối với cá nhân là người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, cá nhân đó vẫn phải ký tên hoặc điểm chỉ. - Đối với cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ (đại diện theo pháp luật) có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ. - Trường hợp người không biết chữ, không nhìn được, không thể tự mình làm đơn khởi kiện, không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án và phải có người làm chứng. Người làm chứng phải ký xác nhận việc khởi kiện và nội dung khởi kiện vào đơn khởi kiện trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận trước mặt người khởi kiện và người làm chứng. Như vậy, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể cá nhân được ủy quyền cho người khác thay mặt mình đứng tên trong đơn khởi kiện. Đây là điểm khác biệt so với pháp luật các nước theo hệ thống thông luật (common law), khi hầu hết đơn khởi kiện đều do luật sư soạn thảo và ký tên dựa trên cơ sở sự ủy quyền đại diện của nguyên đơn. Trong khi đó quy định tại Điều 186 BLTTDS năm 2015 lại quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”, thuật ngữ “người đại diện hợp pháp” cần được hiểu bao gồm cả người đại diện theo pháp luật và người đại điện theo ủy quyền, để đảm bảo quyền tự định đoạt của chủ thể trong quan hệ dân sự cũng như quan hệ tố tụng. TAND Tối cao chỉ có hướng dẫn về thủ tục tố tụng chỉ cho

phép cá nhân được ủy quyền tham gia tố tụng, chứ không quy định người được ủy quyền được ký đơn kiện thay người khởi kiện. Vì vậy, để thống nhất trong việc áp dụng luật, Tòa án nhân dân tối cao cần sớm có hướng dẫn cụ thể về Điều 186 BLTTDS năm 2015 b. Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức Cơ quan, tổ chức khởi kiện thông qua người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó. Cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện trong 3 trường hợp sau: -

Thứ nhất, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. -

Thứ hai, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của người khác, bao gồm:  Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Ví dụ: khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc người không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó…  Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền theo quy định của pháp luật.  Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. -

Thứ ba, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích công

cộng, lợi ích nhà nước. Trường hợp này cần đáp ứng 2 điều kiện: (1) cơ quan, tổ chức đó phải có những nhiệm vụ, quyền hạn trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội về một lĩnh vực nhất định, và (2) lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước cần yêu cầu bảo vệ phải thuộc lĩnh vực do cơ quan, tổ chức đó phụ trách. Ví dụ: Cơ quan Tài nguyên và Môi trường có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố gây ô nhiễm môi trường công cộng…

7.1.2.2. Vụ án khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Yêu cầu pháp luật đặt ra là người khởi kiện phải nộp đơn đến đúng Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án, bao gồm cả thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền theo cấp Tòa án và thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ. Đối với những việc pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan giải quyết trước thì chủ thể khởi kiện vụ án khi các cơ quan hữu quan đã giải quyết mà họ không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan đó. Theo quy định của pháp luật hiện hành những việc này bao gồm: - Tranh chấp về quyền sử dụng đất: Điều 202 Luật đất đai năm 2013 quy định tranh chấp quyền sử dụng đất phải hòa giải tại ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trước khi giải quyết tại Tòa án. - Tranh chấp lao động: Theo quy định tại Điều 32 BLTTDS năm 2015 và Điều 201, Điều 205 BLLĐ năm 2012, tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết, trừ các tranh chấp lao động không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải. Đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền phải trải qua Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết trước, các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc quá thời hạn mà chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. - Đối với tranh chấp về bòi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án , người bị thiệt hại chỉ khởi kiện sau khi cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định giải quyết bồi thường trong thời hạn luật định hoặc người bị thiệt hoặc người bị thiệt hại không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường của cơ quan đó.48 7.1.2.3. Sự việc chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơn quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp có quy định khác của pháp luật Nếu sự việc đã được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết bằng một bản án hoặc quy định đã có hiệu lực pháp luật thì dương sự không được khởi kiện vụ án nữa, trừ các trường hợp sau đây: - Bản án, quyết định của Tòa án bác đơn xin ly hôn;

48 Xem Điều 52 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017

- Yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, xin thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lí di sản. - Vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện Các trường hợp pháp luật quy định khác. 7.1.3. Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự Phạm vi khởi kiện là giới hạn những vấn đề khởi kiện trong vụ án dân sự. Theo Điều 188 BLTTDS năm 2015 thì phạm vi khởi kiện được xác định như sau: - Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. - Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cùng khởi kiện một cơ quan, một tổ chức, một cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. Được coi là “nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau” để giải quyết trong cùng một vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Việc giải quyết quan hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời quan hệ pháp luật khác; Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả lại quyền sử dụng đất. Đồng thời, A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc C phải tháo dỡ công trình mà C đã xây dựng trên đất đó - Việc giải quyết các quan hệ pháp luật có cùng đương sự và về cùng loại tranh chấp quy định trong một điều luật tương ứng tại một trong các điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS. Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả nợ 100 triệu đồng. Đồng thời, A còn khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả lại chiếc xe ôtô mà B thuê của A do đã hết thời hạn cho thuê. 7.1.4. Hình thức khởi kiện và việc gửi đơn khởi kiện vụ án dân sự a.

Hình thức khởi kiện vụ án dân sự

Vụ việc dân sự phát sinh chủ yếu là do cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền khởi kiện của mình bằng việc nộp đơn khởi kiện tại Tòa án . Nội dung đơn khởi kiện phải trình bày được những vấn đề cơ bản theo quy định tại Khoản 2 Điều 189 BLTTDS năm 2015. Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.Tùy theo loại vụ việc cụ thể, người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện các chứng cứ, tài liệu cần thiết. Ví dụ: đối với tranh chấp về hôn nhân và gia đình như Giấy chứng nhận đăng kí kết hôn;

Giấy khai sinh; giấy chứng nhận sở hữu tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của từng người; các chứng từ, tài liệu khác. b. Gửi đơn khởi kiện Theo quy định tại Điều 190 BLTTDS năm 2015, người khởi kiện vụ án gởi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụa ns theo 3 phương thức: -

Nộp trực tiếp tại Tòa án

-

Gửi đến Tòa án qua bưu điện

-

Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử thông qua cổng thông tin điện tử của Tòa án

Ngày khởi kiện là ngày đương sự nộp đơn khởi kiện tại Tòa án hoặc ngày được ghi trên dấu của tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi. 7.2. THỤ LÍ VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ 7.2.1. Thụ lý vụ án dân sự 7.2.1.1. Khái niệm thụ lý vụ án dân sự Thụ lý vụ án là việc Tòa án nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án dân sự để giải quyết. Từ khi thụ lý vụ án dân sự, Tòa án chính thức xác nhận trách nhiệm của mình trong việc giải quyết vụ án dân sự. Tòa án thụ lý vụ án khi nhận được biên lai nộp tiền tạm ứng án phí của người khởi kiện, thể hiện qua việc ghi vào sổ thụ lý vụ án. Vào sổ thụ lý vụ án là hành vi xác định một cách chính thức trách nhiệm giải quyết vụ án của Tòa án. Ngoài ra, việc thụ lý vụ án có ý nghĩa xác định thời điểm bắt đầu của thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự. 7.2.1.2. Thụ tục thụ lý vụ án dân sự a. Nhận đơn khởi kiện và xử lý đơn khởi kiện Theo quy định tại Điều 191 BLTTDS năm 2015, Tòa án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua bưu điện hoặc gửi trực tiếp và phải ghi vào sổ nhận đơn. Khi nhận đơn dưới các hình thức pháp uật quy định thì Tòa án phải cấp ngay giấy xác nhận đơn hoặc thông báo cho người khởi kiện biết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn 5 ngày làm

việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, thẩm phán được phân công phải xem xét đơn và có một trong các quyết định sau: - Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; - Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết - Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác; - Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. b. Yêu cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện Về nguyên tắc, người khởi kiện gửi tài liệu, chứng cứ kèm theo với đơn khởi kiện. Tuy nhiên, đôi khi vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp ngay đầy đủ các tài liệu, chứng cứ thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trong trường hợp này Thẩm phán thông báo cho người khởi kiện biết để họ sửa đổi, bổ sung trong thời hạn do thẩm phán ấn định nhưng không

quá

1

tháng;

trong

trường

hợp

đặc

biệt

, thẩm phán có thể gia hạn nhưng không quá 15 ngày49. Trong trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định của BLTTDS năm 2015 thì thẩm phán tiếp tục làm thủ tục thụ lý vụ án; nếu họ không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của thẩm phán thì thẩm phán trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện. c. Vào sổ thụ lý vụ án dân sự và thông báo việc thụ lý vụ án Điều 195 BLTTDS năm 2015 quy định, sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì thẩm phán, thì thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí. Thẩm phán sẽ dự tính số tiền tạm ứng, ghi vào phiếu báo và giao cho cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được 49 Đối với việc giao nộp, bổ sung tài liệu chứng cứ do thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, ngoài ra, đối với tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm thì đươc sự cơ quyền giao nộp, bổ sung tại phiên tòa sơ thẩm hoặc các giai đoạn tiếp theo của việc giải quyết vụ án dân sự. Xem thêm tại Điều 96 BLTTDS NĂM 2015

giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì thẩm phán thụ lý vụ án và vào sổ thụ lý vụ án dân sự. Nếu người khởi kiện thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì thẩm phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo. Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày thụ lí vụ án, thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn, bị đơn, cơ quan, tổ chức, các nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cho viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án (Điều 196 BLTTDS năm 2015) 7.2.2. Trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự a.

Những trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện Trên thực tế, không phải lúc nào nộp đơn khởi kiện đến Tòa án thì tranh chấp cũng

được Tòa án thụ lý giải quyết. khi xem xết thụ lí vụ án, nếu thấy việc khởi kiện chưa đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện nên không thể thụ lý được vụ án thì thẩm phán trả lại đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo cho người khởi kiện. Khi trả lại đơn khởi kiện thẩm phán phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho viện kiểm sát cũng cấp. Theo khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015, thẩm phán có quyền trả lại đơn kiện cho người nộp đơn trong các trường hợp sau: - Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng Người khởi kiện không có quyền khởi kiện là trường hợp người làm đơn khởi kiện không nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà mình là người đại diện hợp pháp. Hoặc trường hợp người làm đơn khởi kiện không thuộc trường hợp theo quy định của pháp luật có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Ví dụ: Tổ chức A (không phải là tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010) cho rằng Công ty B bán hàng hóa không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng như đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết dẫn đến việc chị C (người tiêu dùng) mua sử dụng bị thiệt hại nên Tổ chức A làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty B bồi thường thiệt hại

cho chị C. Trường hợp này, Tổ chức A không có quyền khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 3 Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. - Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật Ví dụ: Công ty A là người sử dụng lao động ký hợp đồng với ông B, trong hợp đồng ghi rõ ông B sẽ được Công ty cho đi học nghề 01 năm, đồng thời ông B có nghĩa vụ làm việc tại Công ty ít nhất là 05 năm kể từ thời điểm học xong. Tuy nhiên, sau khi học xong ông B chỉ làm việc ở Công ty A 02 năm. Công ty A khởi kiện ông B ra Tòa án buộc ông B hoàn trả chi phí đào tạo học nghề khi chưa tiến hành thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động. Trường hợp này, theo quy định tại Điều 201 Bộ luật lao động năm 2012, khoản 1 Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Công ty A chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án. - Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cuả Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. - Hết thời hạn thông báo theo quy định mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng; - Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Là trường hợp mà theo quy định của pháp luật thì các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết. - Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung. - Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.

b.

Hậu quả pháp lý của việc trả lại đơn khởi kiện Đối với các trường hợp trả lại đơn khởi kiện do vụ án không thuộc thẩm quyền theo

loại việc của Tòa án, hoặc do sự việc đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án. Người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3, Điều 192 và điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015, bao gồm: - Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự (ví dụ: người chưa thành niên đã từ đủ 18 tuổi và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người bị mất hoặc hạn chế, khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi dân sự đã được khôi phục năng lực hành vi dân sự bằng một quyết định của Tòa án) - Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại; Đã có đủ điều kiện khởi kiện; Ví dụ: Trường hợp Tòa án đã bác đơn xin ly hôn của người chồng xin ly hôn vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi, thì Tòa án chỉ thụ lý lại vụ án xin ly hôn của người chồng khi đã đáp ứng đủ điều kiện khởi kiện quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. - Trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì có quyền nộp lại đơn khởi kiện. - Người khởi kiện đã nộp tiền tạm ứng án phí và xuất trình biên lai cho Tòa án sau khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện, thì được coi là nộp đơn khởi kiện lại. - Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật là các trường hợp trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chưa quy định nhưng đã được quy định trong các văn bản quy

phạm pháp luật khác hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Ví dụ: Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 0101-2017, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do “thời hiệu khởi kiện đã hết” nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017 đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó50; c. kiện

Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi

Do việc trả lại đơn khởi kiện không đúng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền khởi kiện của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, nên BLTTDS năm 2015 (Điều 194) quy định người khởi kiện có quyền khiếu nại và Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện. Chánh án Tòa án phải giải quyết khiếu nại, kiến nghị đó và quyết định giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện, hoặc nhận lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành thụ lý vụ án. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị nếu vẫn không đồng ý với kết quả giải quyết đó người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp để giải quyết. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của Chánh án Tòa án cấp trên một cấp trực tiếp thì đương sự, Viện kiểm sát cũng có quyền khiếu nại hoặc kiến nghị đối với Chánh án TAND cấp cao (nếu quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án TAND cấp tỉnh) hoặc Chánh án TAND tối cao (nếu quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án TAND cấp cao) và quyết định của Chánh án là quyết đinh cuối cùng.

50 Xem thêm khoản 3, Điều 7, Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017, hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.

7.3. CHUẨN BỊ XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ, HÒA GIẢI, TẠM ĐÌNH CHỈ, ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ 7.3.1. Chuẩn bị xét xử vụ án dân sự 7.3.1.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án vào sổ thụ lý vụ án đến ngày Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tùy theo tính chất của từng loại vụ án mà thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định khác nhau. - Đối với các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là 4 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, nếu vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì có thể gia hạn nhưng không quá 2 tháng - Đối với các tranh chấp về kinh doanh, thương mại và tranh chấp về lao động, thời hạn chuẩn bị xét xử là 2 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, nếu vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan51 thì có thể gia hạn nhưng không quá 1 tháng. Tuy nhiên, đối với trường hợp cần phải chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, cần phải chờ kết quả giám định kỹ thuật phức tạp hoặc cần phải chờ kết quả uỷ thác tư pháp mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả thời gian gia hạn), thì Thẩm phán căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 214 của BLTTDS năm 2015 ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng52 thì thời hạn này là 02 tháng 7.3.1.2. Các công việc chuẩn bị xét xử Để có thể mở phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự, Tòa án phải tiến hành các hoạt động chuẩn bị xét xử như: phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, thông báo việc thụ lý vụ án, lập hồ sơ vụ án, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai 51 Những vụ án có “tính chất phức tạp” là những vụ án có nhiều đương sự, có liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần phải giám định kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước ngoài đang ở nước ngoài hoặc người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản ở nước ngoài cần phải có thời gian uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự, ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài,… “Trở ngại khách quan” là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu,… làm cho Toà án không thể giải quyết được vụ án trong thời hạn quy định. Xem khoản 3, Điều 14, Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP. 52 “Lý do chính đáng” được hiểu là các sự kiện xảy ra một cách khách quan, không lường trước được như: cần phải có sự thay đổi, phân công lại người tiến hành tố tụng có tên trong quyết định đưa vụ án ra xét xử mà người có thẩm quyền chưa cử được người khác thay thế; vụ án có tính chất phức tạp đã được xét xử nhiều lần ở nhiều cấp Toà án khác nhau, nên không còn đủ Thẩm phán để tiến hành xét xử vụ án đó mà phải chuyển vụ án cho Toà án cấp trên xét xử hoặc phải chờ biệt phái Thẩm phán từ Toà án khác đến,… nên cản trở Toà án tiến hành phiên toà trong thời hạn quy định. Xem khoản 3, Điều 14, Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP.

chứng cứ. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án cũng thực hiện một hoạt động khác hết sức quan trọng là hòa giải giữa các bên đương sự. Nếu hòa giải không thành, Tòa án phải củng cố hoàn thiện hồ sơ vụ án đưa vụ án ra xét xử ở tại phiên tòa. a. Phân công thẩm phán giải quyết vụ án Theo quy định taị Điều 197 BLTTDS năm 2015, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án. Đối với vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể phải kéo dài thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán dự khuyết để bảo đảm xét xử đúng thời hạn theo quy định. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán khác tiếp tục nhiệm vụ; trường hợp đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu và Tòa án phải thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp. b. Thông báo cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giao nộp văn bản Sau khi thụ lí vụ án, chánh án được phân công giải quyết vụ án thông báo cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án văn bản, tài liệu liên quan đến yêu càu của nguyên đơn. Theo Điều 199 BLTTDS năm 2015 thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu, chứng cứ kèm theo. Người được thông báo có quyền thể hiện quan điểm của mình về yêu cầu của người khởi kiện trước Tòa án là đồng ý hay bác bỏ yêu cầu này, có quyền yêu cầu Tòa án xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện. Trường hợp cần gia hạn thì bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có đơn đề nghị gia hạn gửi cho Tòa án nêu rõ lý do; nếu việc đề nghị gia hạn là có căn cứ thì Tòa án phải gia hạn nhưng không quá 15 ngày. Bên cạnh việc thể hiện quan điểm của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo, theo Điều 200 BLTTDS năm 2015 thì bị đơn có quyền yêu cầu phản tố với nguyên đơn; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu yêu cầu đó độc lập,

không cùng với yêu cầu mà nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập yêu cầu Toà án giải quyết, cụ thể: - Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; Ví dụ: Nguyên đơn A có đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn B phải trả lại tiền thuê nhà còn nợ của năm 2005 là năm triệu đồng. Bị đơn B có yêu cầu đòi nguyên đơn A phải thanh toán cho mình tiền sửa chữa nhà bị hư hỏng và tiền thuế sử dụng đất mà bị đơn đã nộp thay cho nguyên đơn là ba triệu đồng. Trường hợp này, yêu cầu của bị đơn B được coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn A. - Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; Ví dụ: A có chiếc xe ô tô thuộc sở hữu riêng đã bán cho C, nhưng nói với con (B là con của A) là cho C thuê mỗi tháng năm triệu đồng. Sau đó A chết, B khởi kiện yêu cầu C phải thanh toán tiền thuê xe trong một năm qua là sáu mươi triệu đồng. C có yêu cầu phản tố yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu xe ô tô và có tranh chấp. Nếu Toà án chấp nhận yêu cầu phản tố của C, thì dẫn đến không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của B đòi C thanh toán tiền thuê xe ô tô. - Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Ví dụ: Chị M khởi kiện yêu cầu anh N phải trợ cấp nuôi con P một tháng/1 triệu đồng. Anh N có yêu cầu phản tố yêu cầu Toà án xác định P không phải là con của anh. Theo Điều 201 BLTTDS năm 2015, trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu có yêu cầu độc lập thì họ cũng phải gửi kèm tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp như việc khởi kiện của nguyên đơn. Khi có các điều kiện sau đây: - Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ; - Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;

- Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Ví dụ: A và B là vợ chồng vay của C một khoản tiền 200 triệu đồng, sau đó A nộp đơn xin li hôn với B, cùng lúc này C nộp đơn khởi kiện yêu cầu A và B có nghĩa vụ thanh toán 200 triệu cho B với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyên lợi nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. c. Lập hồ sơ vụ án dân sự Hồ sơ vụ án dân sự bao gồm đơn và toàn bộ tài liệu, chứng cứ của đương sự, người tham gia tố tụng khác; tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập liên quan đến vụ án; văn bản tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án dân sự. Để lập hồ sơ vụ án, căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của người khỏi kiện, Tòa án xác định các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án yêu cầu các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện cung cấp. Khi nhận được các chứng cứ, tài liệu do các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện cung cấp, Tòa án phải đưa chứng vào hồ sơ vụ án. Thủ tục giao nhận các chứng cứ tài liệu phải được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 96 BLTTDS năm 2015. d. Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ Điều 208 BLTTDS năm 2015 quy định một thủ tục hoàn toàn mới, đó là trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, Thẩm phán tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự. Thủ tục này có ý nghĩa rất quan trọng vì nó tạo điều kiện cho các đương sự tiếp cận được những tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án, góp phần bảo đảm sự khách quan, công khai, minh bạch trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Đảm bảo thực thi nguyên tắc tranh tụng trong suốt quá trình tố tụng. Nội dung của Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ gồm 03 nội dung chính là kiểm tra việc giao nộp chứng cứ, quyền được biết và tiếp cận tài liệu chứng cứ của các đương sự, việc công khai các tài liệu chứng cứ của Tòa án. - Kiểm tra việc giao nộp tài liệu chứng cứ cho Tòa án: là việc xem xét các chứng cứ được các đương sự giao nộp cho Tòa án có đầy đủ, hợp lệ hay không. Tài liệu chứng cứ có thể do các đương sự tự mình thu thập hoặc các văn bản thể hiện quan

điểm của mình về nội dung vụ án… Khi giao nộp Tòa án phải lập biên bản về việc giao nộp tài liệu chứng cứ theo quy định tại Điều 96 BLTTDS. - Kiểm tra việc tiếp cận chứng cứ: Là việc các đương sự có quyền được biết, được ghi chép, được sao chụp tài liệu trong hồ sơ (khoản 8 Điều 70); Được thông báo về những tài liệu mà Tòa án thu thập được (khoản 5 Điều 97). Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác (khoản 5 Điều 96). Kiểm tra việc tiếp cận chứng cứ nhằm giúp các đương sự biết được các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào đó thể đưa ra những lập luận để chứng minh cho yêu cầu của mình. - Kiểm tra việc công khai tài liệu của Tòa án: Các tài liệu chứng cứ mà Tòa án đã thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án như: Biên bản lấy lời khai, đối chất của các đương sự, kết quả trưng cầu giám định, định giá tài sản, xem xét thẩm định tại chỗ (nếu có)… và tài liệu chứng cứ khác do đương sự giao nộp phải được Tòa án công khai. Từ đó đương sự có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập thêm tài liệu chứng cứ hoặc giao nộp thêm tài liệu chứng cứ cho Tòa án nếu thấy cần thiết hoặc yêu cầu Tòa án công khai tài liệu chứng cứ đương sự đã giao nộp nhưng không được công khai (trừ những tài liệu không được công khai Điều 109) mà không có trong hồ sơ vụ án. Theo Điều 210 BLTTDS năm 2015 , thẩm phán được phân công giải quyết vụ án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ giữa các bên đương sự sau khi đã thông báo (Điều 208 BLDS năm 2015). Nếu trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp. Thẩm phán phải thông báo việc hoãn phiên họp và việc mở lại phiên họp cho đương sự. Khi tiến hành phiên họp, thẩm phán công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, hỏi đương sự các vấn đề sau: - Yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết; - Tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác;

- Bổ sung tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa; - Những vấn đề khác mà đương sự thấy cần thiết. Sau khi các đương sự đã trình bày xong, Thẩm phán xem xét các ý kiến, giải quyết các yêu cầu của đương sự. Trường hợp người được Tòa án triệu tập vắng mặt thì Tòa án thông báo kết quả phiên họp cho họ. Việc kiểm tra sự giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ phải được lập thành biên bản phù hợp với Điều 211 BLTTDS năm 2015. 7.3.2. Hòa giải vụ án dân sự 7.3.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự Theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, “hòa giải vụ án dân sự” là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự. Cơ sở của hòa giải vụ án dân sự là quyền tự định đoạt của đương sự. Để giải quyết vụ án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Tòa án không chỉ xét xử mà còn hòa giải vụ án dân sự. Điều 10 BLTTDS năm 2015 quy định, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự theo quy định. Hòa giải vụ án dân sự ở Việt Nam có những đặc điểm sau đây: - Thứ nhất, các đương sự có quyền tự thỏa thuận về giải quyết nội dung vụ án dân sự ở bất kì thời điểm nào trong quá trình tố tụng trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, tại phiên tòa sơ thẩm, trước và tại phiên tòa phúc thẩm. Tuy nhiên, hòa giải là thủ tục bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. - Thứ hai, chủ thế tiến hành hòa giải là Tòa án mà chủ yếu là Thẩm phán. Hòa giải được coi là trách nhiệm của Tòa án (Điều 10 BLTTDS năm 2015). Đây là điểm khác biệt giữa hòa giải vụ án dân sự với hòa giải ở cơ sở, hòa giải do trọng tài thương mại tiến hành, hòa giải tranh chấp lao động do hòa giải viên lao động tiến hành. - Thứ ba, trình tự, thủ tục hòa giải vụ án dân sự phải tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự, khác với hòa giải ngoài tố tụng. - Thứ tư, thỏa thuận mà các đương sự đạt được thông qua hòa giải vụ án dân sự có hiệu lực thi hành như một bán án sau khi Tòa án đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Việc hòa giải trong vụ án dân sự có ý nghĩa rất lớn:

- Thứ nhất, Tòa án hòa giải thành vụ án dân sự thì không cần phải mở phiên Tòa xét xử vụ án, giảm bớt một giai đoạn tố tụng kéo dài và phúc tạp, tiết kiệm được thời gian, tiền của cho Nhà nước cũng như cho nhân dân - Thứ hai, hòa giải thành vụ án dân sự giúp Tòa án giải quyết được mâu thuẫn giữa các đương sự, khôi phục và duy trì được mối quan hệ bình thường giữa các bên đương sự, hạn chế sự đối đầu căng thẳng bởi trong hòa giải không có người thắng, người thua. 7.3.2.2.

Nguyên tắc tiến hành hòa giải

Theo khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015, việc hòa giải vụ án dân sự được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây: - Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình; - Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Ngoài ra, hòa giải phải tích cực, kiên trì nhằm đạt được kết quả hòa giải. Tích cực để có thể giải quyết được nhanh chóng vụ án, không để việc hòa giải kéo dài vô ích khi không có khả năng hòa giải nhưng lại phải kiên trì giải thích cho đương sự hiểu rõ pháp luật áp dụng giải quyết vụ án và đi sâu giải quyết các mắc mớ trong tâm tư tình cảm của họ. 7.3.2.3. a.

Phạm vi và nội dung hòa giải vụ án dân sự

Phạm vi hòa giải vụ án dân sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 205 BLTTDS năm 2015 quy định hòa giải tiến hành

đối với hầu hết các vụ án dân sự, trừ trường hợp không hòa giải được hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Những vụ án dân sự không hòa giải được quy định tại Điều 206 BLTTDS năm 2015 bao gồm: Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước; và những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội. - Đối với yêu cầu bổi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, Tòa án không tiến hành hòa giải vì tài sản của nhà nước thuộc sở hữu toàn dân. Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước” là trường hợp tài sản của Nhà nước bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật, do hợp đồng vô hiệu, do vi phạm nghĩa vụ dân

sự,... gây ra và người được giao chủ sở hữu đối với tài sản Nhà nước đó có yêu cầu đòi bồi thường. Tuy nhiên, không phải mọi yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước đều không được hoà giải, mà cần phải phân biệt hai trường hợp:  Trường hợp tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang quản lý, sử dụng hoặc đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến loại tài sản này, Toà án không được hoà giải để các bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.  Trường hợp tài sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của các chủ sở hữu khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản đó, Toà án tiến hành hoà giải để các bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo thủ tục chung53. - Đối với những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, Tòa án cũng không hòa giải vì các giao dịch đó vô hiệu. Giao dịch trái pháp luật ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp là những giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, ví dụ như: vụ án phát sịnh từ giao dịch cho vay bằng ngoại tệ giữa các cá nhân không được phép, giao dịch mua bán trái phép chất ma túy, đòi nợ phát sinh từ hoạt động đánh bạc. Trường hợp các bên chỉ có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu do trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, thì Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu đó. Những trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 BLTTDS năm 2015 bao gồm: - Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt. - Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng. - Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự. - Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải. 53 Xem thêm Điều 15, nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân sự

Trong tất cả những trường hợp không hòa giải được, Tòa án phải lập biên bản không hòa giải được, nêu rõ lí do để lưu vào hồ sơ vụ án, sau đó đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa. b. Nội dung hòa giải vụ án dân sự Nội dung hòa giải chính là các vấn đề của vụ án cần được các bên thỏa thuận với nhau giải quyết. Các vấn đề cần giải quyết trong mỗi vụ án khác nhau nên nội dung hòa giải các vụ án dân sự khác nhau. Tùy mỗi vụ án cụ thể mà Tòa án phải giúp các đương sự thỏa thuận giải quyết những vấn đề nhất định như thỏa thuận về mức, phương thức bồi thường thiệt hại trong vụ án đòi bồi thường thiệt hịa ngoài hợp đồng; việc phân chia di sản trong vụ án về thừa kế… 7.3.2.4. Thành phần và thủ tục hòa giải vụ án dân sự a. Thành phần của phiên hòa giải vụ án dân sự Theo quy định tại Điều 209 BLTTDS năm 2015, thành phần phiên họp hòa giải bao gồm: -

Thâm phán chủ trì phiên họp hòa giải;

-

Thư kí tòa án ghi biên bản hòa giải;

-

Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ;

Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp. Thẩm phán phải thông báo việc hoãn phiên họp và việc mở lại phiên họp cho đương sự. Trường hợp trước khi tiến hành hòa giải đương sự vắng mặt đã có ý kiến bằng văn bản nhưng sau khi kết thúc phiên hòa giải, nội dung hòa giải của các đương sự có mặt khác với nội dung văn bản thể hiện ý chí của đương sự vắng mặt, thì Tòa án phải lấy ý kiến bằng văn bản của đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải về thỏa thuận của các đương sự tại phiên hòa giải. Thủ tục và thời hạn lấy ý kiến bằng văn bản của đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trường hợp đương sự đồng ý với kết quả hoà giải thì ngày nhận được ý kiến bằng văn bản của đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải được xác định là ngày các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án

-

Đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động đối với vụ án lao động khi có

yêu cầu của người lao động, trừ vụ án lao động đã có tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động, người lao động. Trường hợp đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động không tham gia hòa giải thì phải có ý kiến bằng văn bản; -

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có); - Người

phiên dịch (nếu có). Trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia phiên họp; đối với vụ án về hôn nhân và gia đình, Thẩm phán yêu cầu đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia phiên họp; nếu họ vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp. b. Trình tự, thủ tục tiến hành phiên hòa giải vụ án dân sự Theo quy định của Điều 208 BLTTDS năm 2015, trước khi tiến hành phiên hòa giải, Tòa án phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hòa giải, nội dung các vấn đề cần hòa giải. Trước khi tiến hành phiên họp, Thư ký Tòa án báo cáo Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp đã được Tòa án thông báo. Thẩm phán chủ trì phiên họp kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của những người tham gia, phổ biến cho các đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ. Ví dụ: Đối với nguyên đơn phải giải thích đầy đủ quyền, nghĩa vụ của họ quy định tại Điều 70 và Điều 71, 72 của BLTTDS năm 2015,… Đối với người phiên dịch, Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải yêu cầu họ phải cam đoan làm tròn nhiệm vụ; đối với người làm chứng là người thành niên, thì yêu cầu họ cam đoan khai báo trung thực. Sau khi có đầy đủ điều kiện tiến hành hòa giải thẩm phán tiến hành phiên hòa giải cùng với thư kí ghi biên bản. - Đầu tiên thẩm phán công bố nội dung vụ án đang tranh chấp, phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các đương sự liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. - Sau khi được thẩm phán hướng dẫn và nghe giải thích pháp luật có liên quan đến vụ án đang tranh chấp, đến lượt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan phát biểu quan điểm của họ về vấn đề đang tranh chấp và đưa ra định hướng giải quyết

- Sau khi các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa thống nhất và yêu cầu các đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất; Đối với những ý kiến của đương sự đưa ra cách giải quyết bất hợp lí như khởi kiện đòi tài sản không có căn cứ, yêu cầu đồi bồi thường quá đáng thì thẩm phán chủ trì phiên họp kịp thời phân tích, thẳng thắn chỉ cho họ biết những yêu cầu căn cứ đó là vô lý để họ cân nhắc. - Thẩm phán kết luận về những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa thống nhất Khi đương sự thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Tòa án lâp biên bản thành, trong đó ghi rõ nội dung tranh chấp và những nội dung đã được đương sự thỏa thuận. Biên bản này chưa có giá trị pháp lý, nó chỉ là tài liệu văn bản xác nhận một sự kiện và nó là cơ sở để Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia phiên họp, chữ ký của Thư ký Tòa án ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên họp. Những người tham gia phiên họp có quyền được xem biên bản ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản và ký xác nhận hoặc điểm chỉ. 7.3.2.5. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự Mặt dù các bên đã tìm ra được tiến nói chung, đã thỏa thuận được với nhau một giải pháp giải quyết và điều này đã được ghi nhận trong biên bản hòa giải. Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015 quy định phải dành cho các bên đương sự một thời gian cần thiết nữa để họ suy nghĩ, cân nhắc lại tất cả nững nội dung mà họ đã thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Theo quy định tại Điều 212 BLTTDS năm 2015, hết thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó, thì về nguyên tắc chung Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Nếu vì trở ngại khách quan mà Thẩm phán không ra quyết định được, thì Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán khác ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án (các quan hệ pháp luật, các yêu cầu của các đương sự trong vụ án) và cả về án phí. Trong trường hợp các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nhưng không thoả thuận được với nhau về trách nhiệm phải chịu án phí hoặc mức án phí, thì Toà án không công nhận sự thoả thuận của các đương sự mà tiến hành mở phiên toà để xét xử vụ án. Trong trường hợp đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được Tòa án ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi 7.3.3. Tạm đình chỉ và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự 7.3.3.1. Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Toa án quyết định tạm ngừng việc giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định Tạm đình chỉ vụ án dân sự bản chất chỉ là việc tạm thời cho ngừng việc giải quyết vú án dân sự chứ không phải cho ngừng hẳn việc giải quyết vụ án dân sự. Tính chất gián đoạn tạm thời này sẽ được khắc phục, mọi hoạt động tố tụng sẽ được khôi phục khi nguyên nhân của việc tạm đình cchir không còn nữa Các căn cứ tạm đình chỉ vvuj án dân sự được quy định tại Điều 214 BLTTDS năm 2015 với các căn cứ: - Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó; - Đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật;

- Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế; - Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án; Bao gồm các trường hợp mà kết quả giải quyết vụ án dân sự, hình sự, hành chính đó, hoặc kết quả giải quyết của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là cơ sở để xác định thẩm quyền của Tòa án, xác định quyền khởi kiện đối với vụ án, xác định địa vị pháp lý, xác định người tham gia tố tụng, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp hoặc là căn cứ khác để Tòa án giải quyết vụ án này một cách toàn diện, chính xác và đúng pháp luật. Ví dụ: Trong vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản giữa nguyên đơn A và bị đơn B. Sau khi thụ lý vụ án mà Tòa án nhân dân huyện X nhận được thông báo của Tòa án nhân dân huyện Y về việc Tòa án này đang thụ lý giải quyết vụ án giữa nguyên đơn C và bị đơn A về tranh chấp quyền sở hữu đối với tài sản đó. Trường hợp này, Tòa án nhân dân huyện X cần ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản giữa A và B để chờ kết quả giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu tài sản đó của Tòa án nhân dân huyện Y. Căn cứ vào kết quả giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Y, Tòa án nhân dân huyện X sẽ tiếp tục giải quyết vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản theo thủ tục chung. - Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án. Đây là trường hợp Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi phải thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp hoặc chưa có kết quả thực hiện ủy thác tư pháp hoặc chưa nhận được các tài liệu, chứng cứ từ cơ quan, tổ chức mà thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả trường hợp đã gia hạn) đã hết hoặc tuy đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc tại phiên tòa xét xử mà xét thấy cần phải thực hiện ủy thác tư pháp hoặc cần phải yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ mới giải quyết được vụ án thì Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. - Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ; - Theo quy định tại Điều 41 của Luật phá sản. Đây là các trường hợp Tòa án tiến hành tạm đình chỉ việc giải quyết vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động

có liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà chủ doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự mất khả năng thanh toán thực hiện nghĩa vụ về tài sản theo Luật phá sản 2014. - Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Khi rơi vào những trường hợp nêu trên thì thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Quyết định tạm đình chỉ phải được lập thành văn bản. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp. Thời hạn tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, pháp luật không quy định cụ thể. Tuy nhiên, sau khi có quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, nếu thấy lí do hay căn cứ tạm đình chỉ không còn thì Tòa án lại tiếp tục giải quyết vụ án. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án không còn thì Tòa án phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự và gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp. Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc nhà nước và được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự. 7.3.3.2. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án quyết định ngừng việc giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định. Đặc điểm của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là sau khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, các hoạt động tố tụng giải quyết vụ án dân sự được ngừng lại. Các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được quy định taị Điều 217 BLTTDS năm 2015, bao gồm: - Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế. Quyền và nghĩa vụ không được thừa kế được hiểu là các quyền, nghĩa vụ về tài sản hoặc gắn liền với nhân thân của cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác. Trường hợp này đặc biệt phổ biến trong các vụ án hôn nhân và gia đình. Ví dụ: vụ án ly hôn mà một bên vợ hoặc chồng chết, vụ án yêu cầu người cha thực hiện

nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con chưa thành niên mà nguyên đơn (người con chưa thành niên) chết hoặc bị đơn (người cha có nghĩa vụ cấp dưỡng) chết. - Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; - Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan. Nếu trong vụ án đó có bị đơn yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, thì cần xét: 

Nếu bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; 

Nếu bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố thì Tòa án ra

quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; bị đơn trở thành nguyên đơn, nguyên đơn trở thành bị đơn; 

Nếu bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên

quan không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu độc lập thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người nào bị khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở thành bị đơn. - Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó; - Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác nếu có bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. - Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết; - Các trường hợp thẩm phán trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 192 của BLTTDS năm 2015 mà Tòa án đã thụ lý; - Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Là các trường hợp làm căn cứ cho Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự mà trong BLTTDS này chưa quy định nhưng đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc sau khi BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy

phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Nếu có một ttrong các căn cứ nêu trên thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp. Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tòa án xó tên vụ án đó trong sổ thụ lý vụ án và trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu yêu cầu. Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của BLTTDS năm 2015 và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Trường hợp quy định tại điểm a và b khoản 1 Điều 217 hoặc vì lý do nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước, những trường hợp đình chỉ khác thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được trả lại cho họ. 7.4.

PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ

7.4.1. Khái niệm, ý nghĩa của phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự Sau khi tiến hành hoạt động hòa giải nhưng các bên không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án, pháp luật quy định vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được, Tòa án phải tiến hành mở phiên tòa sơ thẩm xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự là phiên xét xử vụ án dân sự lần đầu của Tòa án. Tất cả những vụ án nếu đã phải đưa ra xét xử thì đều phải trải qua việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm. Phiên tòa sơ thẩm là phiên tòa xét xử lần đầu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ án dân sự, bao gồm:

- Việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm là cơ sở cho việc thi hành án sau khi Tòa án tiến hành phiên tòa sơ thẩm, việc giải quyết vụ án dân sự kết thúc, trừ trường hợp có kháng cáo, kháng nghị. - Phiên tòa sơ thẩm cũng là nơi Tòa án giáo dục pháp luật. Thông qua nguyên tắc xét xử công khai tất cả mọi người đều có thể tham dự nếu đạt độ tuổi nhất định (trừ một số vụ án xét xử kín) hoặc xem trên các phương tiện thông tin qua đó biết rõ hơn những quy định của pháp luật được tòa án áp dụng từ đó nâng cao được ý thức pháp luật của họ. - Thông qua hoạt động xét xử thể hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan xét xử, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước 7.4.2. Những quy định chung về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự 7.4.2.1. Nguyên tắc tiến hành phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự Việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm không những phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản được quy định từ Điều 3 đến Điều 25 BLTTDS năm 2015. Ngoài ra sự có mặt của các đương sự trong phiên tòa sơ thẩm đóng một vai trò rất quan trọng cho nên phiên tòa sơ thẩm cần được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên tòa trong trường hợp phải hoãn phiên tòa (Điều 222 BLTTDS năm 2015). Từ đó thuận lợi cho việc đương sự tham gia phiên tòa dễ dàng tránh được sự phiền hà và tổn thất về thời gian, tiền bạc cho đương sự do theo kiện Ngoài ra, BLTTDS năm 2015 còn quy định phiên tòa sơ thẩm cần được tiến hành theo phương thức xét xử trực tiếp, bằng lời nói (Điều 225 BLTTDS năm 2015) nhằm đảm bảo cho Tòa án thẩm định và xác minh được đầy đủ, chính xác các tài liệu chứng cứ vụ án và đánh giá chúng một cách toàn diện. Theo quy định này, Tòa án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe lời trình bày, tranh luận của đương sự và người tham gia tố tụng khác, nghe kiểm sát viên phát biểu ý kiến nếu kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Ngoài ra việc xét xử ở phiên tòa phải được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi băt đầu cho đến khi kết thúc, trừ trường hợp không thể tham gia xét xử được theo quy định phải thay đổi. Trong trường hợp đặc biệt theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì việc xét xử có thể bị tạm ngừng không quá 1 tháng, kể từ ngày ra quyết định tạm ngừng phiên tòa (khoản 2, Điều 259 BLTTDS năm 2015)

7.4.2.2. Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm Theo quy định tại Điều 63 BLTTDS năm 2015, thành phẩn Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn chỉ cần 1 thẩm phán. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác tại Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em. Đối với vụ án lao động thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác trong tổ chức đại diện tập thể lao động hoặc người có kiến thức về pháp luật lao động. Trường hợp cần thay thế thành viên Hội đồng xét xử trong những trường hợp đặc biệt được quy định tại Điều 226 BLTTDS năm 2015. 7.4.2.3.

Những người tham gia phiên tòa sở thẩm vụ án Để vụ án được giải quyết nhanh chóng, chính xác và đồng thời bảo đảm cho

việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tất cả người tham gia tố tụng phải được triệu tập tham gia phên tòa. Theo quy định tại Điều 227 đến Điều 232 BLTTDS năm 2015, những người tham gia tố tụng phiên tòa gồm có: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định và người phiên dịch. Ngoài ra theo quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS năm 2015, Viện kiểm sát phải cử kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này. Việc tham gia phiên tòa của đương sự đóng một vai trò đặt biệt quan trọng trong xét xử, tại các Điều 227 và Điều 228 BLTTDS năm 2015, Tòa án chỉ xét xử vắng mặt đương sự trong các trường hợp sau: - Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. - Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng có người đại diện tham gia phiên tòa.

- Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ; - Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật; - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp luật; - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ 7.4.2.4. Hoãn phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự Hoãn phiên tòa là việc dời thời gian tiến hành phiên tòa đã định sang thời điểm khác muộn hơn. Các căn cứ hoãn phiên tòa sơ thẩm bao gồm: -

Trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra

viên, Thư ký Tòa án thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa hoặc trong trường hợp họ không thể tiếp tục thực hiện được nhiệm vụ mà không có người thay thế (khoản 2 Điều 56 BLTTDS năm 2015) -

Trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên thì Hội đồng xét xử ra quyết

định hoãn phiên tòa hoặc trong trường hợp kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa mà không có kiểm sát viên dự khuyết để thay thế (khoản 2 Điều 62 BLTTDS năm 2015) -

Trường hợp phải thay đổi người giám định (khoản 2 Điều 84 BLTTDS

năm 2015) hoặc khi Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại theo quy định tại khoản 4 Điều 257 BLTTDS năm 2015 -

Trường hợp người phiên dịch vắng mặt hoặc trường hợp người phiên

dịch biij thay đổi mà không có người khác thay thế, trừ trường hợp đương sự vẫn yêu cầu tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 84 BLTTDS năm 2015.

-

Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của

họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. -

Tòa án triệu tập lần thứ hai mà đương sự hoặc người đại diện của đương

sự vắng mặt do sự kiện bất khả kháng xảy ra đối với họ vào trước thời điểm Tòa án mở phiên Tòa hoặc ngay trong thời điểm họ đang đi trên đường đến Tòa án (ốm đau, bệnh nặng, người thân chết, bị tai nạn…) nên họ không thể có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, thì Toà án cũng hoãn phiên toà.54 Thời hạn hoãn phiên tòa không quá 1 tháng, đối với phiên tòa theo thủ tục rút gọn , thời hạn hoãn phiên tòa không quá 15 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa. Trường hợp sau khi hoãn phiên tòa mà Tòa án không thể mở lại phiên tòa đúng thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa ghi trong quyết định hoãn phiên tòa thì Tòa án phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng về thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa 7.4.3. Thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự 7.4.3.1. Chuẩn bị khai mạc phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự Việc thực hiện các công việc trong bước chuẩn bị khai mạc phiên tòa là nhiệm vụ của thư kí Tòa án. Đây là thủ tục bắt buộc đảm bảo cho phiên tòa diễn ra có sự tham gia đầy đủ của những người tham gia tố tụng, bao gồm các công việc: -

Phổ biến nội quy phiên tòa.

-

Kiểm tra, xác định sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên

tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án; nếu có người vắng mặt thì phải làm rõ lý do. -

Ổn định trật tự trong phòng xử án.

-

Yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào

phòng xử án. 7.4.3.2. Thủ tục bắt đầu phiên tòa sở thẩm vụ án dân sự Trong thủ tục bắt đầu phiên tòa, Hội đồng xét xử phải tiến hành những công việc mang tính chất thủ tục nhưng rất quan trọng như: khai mạc phiên tòa (Điều 239); giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch (Điều 240); xem xét, quyết định tạm hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt (Điều 54 Xem thêm khoản 2 Điều 28 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP.

241); bảo đảm khách quan của người làm chứng (Điều 242); hỏi đương sự về sự thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thỏa thuận giải quyết vụ án (Điều 243 BLTTDS năm 2015). Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên toà. Trong trường hợp Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự, thì phải ghi trong bản án. Trường hợp đương sự rút một phần yêu cầu trước và tại phiên tòa, thì Tòa án ghi vào phần nhận định và quyết định trong bản án, quyết định về việc rút yêu cầu đó của đương sự. 7.4.3.3. Thụ tục tranh tụng tại phiên tòa Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến nhưng có quyền yêu cầu họ dừng trình bày những ý kiến không có liên quan đến vụ án dân sự. a. Trình tự các bên đương sự được trình bày tại phiên tòa Sau khi họ đã thực hiện các hoạt động nghiệp vụ cần thiết như quy định tại các Điều 243, 244 và 246 BLTTDS năm 2015 nhưng có đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của họ và các bên trong vụ án cũng không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp thì Hội đồng xét xử (HĐXX) bắt đầu xét xử vụ án bằng việc các bên đương sự trình bày về các yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp. Điều 248 BLTTDS năm 2015 quy định trình tự các bên đương sự được trình bày tại phiên tòa như sau: - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày về yêu cầu và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ và hợp pháp. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án

thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày về yêu cầu và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp; - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến; - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày về yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Tại phiên tòa, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ có quyền bổ sung chứng cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 96 của Bộ luật này để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình. b. Trình tự và nguyên tắc hỏi tại phiên tòa Theo quy định tại Điều 249 BLTTDS năm 2015, trình tự hỏi từng người về vấn đề của vụ án được tiến hành theo thứ tự: - Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hỏi trước, tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; - Những người tham gia tố tụng khác; - Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân; - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Việc đặt câu hỏi phải rõ ràng, nghiêm túc, không trùng lắp, không lợi dụng việc hỏi và trả lời để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của những người tham gia tố tụng.

c. Công bố các tài liệu của vụ án dân sự Tiếp theo, Hội đồng xét xử công bố các tài liệu của vụ án. Việc công bố các tài liệu vụ án được thực hiện theo Điều 254 BLTTDS năm 2015. Hội đồng xét xử chỉ công bố tài liệu trong các trường hợp sau đây: - Người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; đó; của

- Lời khai của người tham gia tố tụng tại phiên tòa mâu thuẫn với lời khai trước - Trong các trường hợp khác mà Hội đồng xét xử thấy cần thiết hoặc có yêu cầu

Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người tham gia tố tụng khác. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bảo vệ người chưa thành niên theo yêu cầu của đương sự thì Hội đồng xét xử không công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Ngoài ra, theo yêu cầu của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người tham gia tố tụng khác, Kiểm sát viên hoặc khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh tại phiên tòa. Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không; trường hợp có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc hỏi. Ví dụ: Trong một vụ kiện về đồi tiền lương, Thẩm phán yêu cầu đương sự trình bày về các vấn đề sau đây: -

Yêu cầu đòi tiền lương của nguyên đơn là tiền lương gì?

Chế độ trả lương mà đơn vị sử dụng lao động đang áp dụng, quy chế trả lương của doanh nghiệp (nếu có) -

Mức lương người lao động đang hưởng theo hợp đồng?

-

Vi phạm của người sử dụng lao động là gì: không trả lương, chậm trả

lương, trả lương không đủ hay tính mức lương không đúng… Vi phạm của người sử dụng lao động xảy ra từ thời điểm nào? -

Những chứng cứ và căn cứ để yêu cầu đòi tiền lương

Nếu không ái có ý kiến hay nêu ra vấn đề gì nữa thì chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc việc hỏi và chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa d. Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự Tranh luận là một trong những nội dung của thủ tục tranh tụng tại phiên tòa thể hiện qua việc phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự trong vụ án. Do đó BLTTDS năm 2015 đã dành riêng một mục với 4 điều, từ Điều 232 đến Điều 325 quy định về hoạt động tranh luận tại phiên tòa. Điều đó thể hiện tầm quan trọng của hoạt động tranh luận tại phiên tòa. - Nội dung tranh luận Khi tranh luận cần tập trung vào hai nội dung quan trọng sau đây: Một là, phân tích, đánh giá chứng cứ, tranh luận bảo vệ lý lẽ của mình, trong đó có quyền đưa ra các chứng cứ để bác bỏ lí lẽ của phía bên kia và chỉ rõ việc áp dụng quy phạm pháp luật nội dung nào để giải quyết vụ án. Hai là, trong khi phát biểu tranh luận đánh giá về vụ án, các bên tham gia tố tụng đề xuất quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ án trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được các bên thảo luận, xem xét, xác minh và thừa nhận tại phiên tòa. - Căn cứ tranh luận Vai trò chủ động của cá nhân đương sự và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự trong tranh luận được xem là yếu tố quyết định trong việc chứng minh, tự chứng minh cho các yêu cầu kiện tụng mà họ đã nêu ra và họ cho rằng yêu cầu, lí lẽ đó là đúng đắn. Vì vậy, Điều 261 BLTTDS năm 2015 quy định căn cứ phát biểu khi tranh luận và đối đáp như sau: Thứ nhất, khi phát biểu đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, người tham gia tố tụng phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như kết quả việc hỏi tại phiên tòa Thứ hai khi tham gia tranh luận, các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác không được dựa vào suy đoán cảm tính để tranh luận mà phải theo nguyên lý “nói có sách, mách có chứng”

- Trình tự tranh luận Điều 260 BLTTDS năm 2015 quy định trình tự phát biểu khi tranh luận như sau: Thứ nhất, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày ý kiến. Người có quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến; Thứ hai, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn tranh luận, đối đáp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến; Thứ ba, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến; Thứ tư, các đương sự đối đáp theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa; Thứ năm, Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể yêu cầu các đương sự tranh luận bổ sung về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ giải quyết vụ án. Trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ tự mình trình bày khi tranh luận.

Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự và người tham gia tố tụng khác thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp. - Phát biểu của Kiểm sát viên Đối với những vụ án dân sự, BLTTDS năm 2015 quy định phải có sự tham gia của kiểm sát viên tại phiên tòa như sau: Thứ nhất, sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án (Điều 262 BLTTDS năm 2015)

Thứ hai, qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận (Điều 263 BLTTDS năm 2015) 7.4.3.4.

Nghị án và tuyên án

a. Nghị án Nghị án là việc HĐXX xem xét, quyết định giải quyết vụ án. Trên cơ sở kết qủa của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa, hội động xét xử vào phòng nghị án để thảo luận quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án. Theo Điều 264 BLTTDS năm 2015, việc nghị án được tiến hành như sau: - Hội đồng xét xứ nghị án tại phòng riêng. Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. - Khi nghị án, chủ tọa phiên tòa nêu từng vấn đề để hội đồng xét xử thảo luận và quyết. Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án. - Hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đi được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc hỏi tại phiên tòa và phải xem xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng kiểm sát viên để quyết định giải quyết vụ án. Ngoài ra nếu trường hợp thuộc khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015 thì Hội đồng xét xử còn phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật những nguyên tắc cơ bản của của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng để giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án. - Phải có biên bản nghị án ghi lại ý kiến đã thảo luận và giải quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được các thành viên hội đồng xét xử kí tên tại phòng nghị án trước khi tuyên ấn - Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài thì hội đồng xét xử có thể quyết định nghị án nhưng không quá 5 ngày làm việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phải thông báo ngày giờ tuyên án cho các đương sự biết. Nếu đã ấn định ngày giờ tuyên án mà có thay đổi, thì Hội đồng xét xử phải thông báo lại cho các đương sự biết việc thay đổi đó. Khi nghị án mà thấy chứng cứ, tài liệu chưa đầy đủ thì hội đồng xét xử vẫn cho dừng việc nghị án lại và tiến hanhd xét hỏi lại, tranh luận lại. Qua nghị án, nếu xét thấy có

tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận b. Tuyên án Sau khi bản án đã được thông qua, Hội đồng xét xử trỏe lại phòng xét xử để tuyên án. Theo Điều 267 BLTTDS năm 2015 thì thủ tục tuyên án được tiến hành như sau: - Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Nếu thấy có người không đứng dậy, thì Thư ký Toà án phải nhắc nhở họ, nếu người đó báo cáo vì lý do sức khoẻ nên không thể đứng dậy được, thì chủ toạ phiên toà cho phép ngồi tại chỗ và sau đó mới tuyên án. Chủ tọa phiên toà hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án; nếu bản án dài thì có thể thay nhau đọc bản án. - Trong trường hợp bản án quá dài, thì chủ tọa phiên toà có thể chỉ yêu cầu mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi đọc phần mở đầu và phần quyết định của bản án. - Sau khi đọc xong bản án, tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, chủ tọa phiên toà hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo của đương sự. - Đối với đương sự không biết tiếng Việt, thì sau khi tuyên án xong người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng mà họ biết (bao gồm cả phần bản án có liên quan đến họ và phần bản án có liên quan đến các đương sự khác trong vụ án). Để tạo điều kiện cho các đương sự biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình được xác định trong bản án sơ thẩm, làm cơ sở cho việc thi hành án dân sự và thực hiện quyền kháng cáo, trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày kết thức phiên tòa, các đương sự và cơ quan, tổ chức khởi kiện được Tòa án cấp trích lục bản án. Toàn văn bản án phải được Tòa án giao hoặc gửi cho đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án.

Câu hỏi ôn tập Câu 1: Nhận định sau đây đúng hay sai? Giải thích và nêu căn cứ pháp lý? a. Nếu thời hiệu khởi kiện đã hết Tòa án xem xét trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện

 Sai, căn cứ K2Đ7, NQ 04/2017 và K1Đ192, BLTTDS 2015 b. Trong mọi trường hợp, thời hạn giải quyết tối đa đối với một vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình là 6 tháng.

 Sai, vì thời hạn này là thời hạn chuẩn bị xét xử là 4 tháng, gia hạn thêm 2 tháng là 6 tháng. Nên rất khó xác định, thì phải hơn 6 tháng.

c. Tòa án chỉ tiến hành thủ tục hòa giải đối với vụ án dân sự không áp dụng đối với thủ tục giải quyết việc dân sự

 Sai, vì vẫn tổ chức phiên họp bình thường, căn cứ Đ397, BLTTDS 2015 d. Tại phiên hòa giải vụ án dân sự lần thứ nhất nếu vắng mặt một trong các bên đương sự mà không có lý do Tòa án phải hoãn phiên họp. Câu 2:

Ngày 01/01/2013, Anh A (Cư trú tại quận 1) khởi kiện anh B (Cư trú tại Quận 2) và chị C (Cư trú tại quận 3), với yêu cầu: anh B và chị C phải trả lại anh A căn nhà thuê tại Quận 4 (do anh A là chủ sở hữu) đã hết hạn thuê từ ngày 01/10/2012 và tiền thuê nhà hàng tháng 11 và tháng 12 năm 2012 là 20 triệu đồng. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, anh B và chị C nộp đơn đến Tòa án với yêu cầu: anh A phải trả lại cho anh B và chị C số tiền vay là 30 triệu đồng, mà anh A đã vay của anh B và chị C đã hết hạn trả từ ngày 01/11/2012 mà chưa trả. Hỏi: 1 – Tòa án có chấp nhận đơn yêu cầu của anh B và chị C để xét xử chung trong vụ án do anh A khởi kiện không? Tại sao? 2 – Xác định những tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết đơn khởi kiện của anh A? 3 – Tại phiên tòa sơ thẩm, Anh A rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nên Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Quyết định này đúng pháp luật không? Tại sao?.

Chương 8 THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TOÀ ÁN CẤP PHÚC THẨM  Mục tiêu Sau khi tìm hiểu về nội dung chương 8: Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm sinh viên có khả năng hiểu và nắm được những nội dung căn bản: - Hiểu được bản chất và đặc trưng của phiên tòa phúc thẩm so với phiên tòa sơ thẩm - Biết được chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị; hình thức, đối tượng, thời hạn và hậu quả pháp lý của việc kháng cáo kháng nghị. - Nắm được các trình tự thủ tục và các giai đoạn cơ bản trong việc giải quyết một vụ án dân sự tại Tòa án phúc thẩm, từ giai đoạn thụ lý, chuẩn bị xét xử đến đưa vụ án ra xét xử tại Tòa án phúc thẩm, cần tiến hành những thủ tục cụ thể nào để vận dụng vào giải quyết một vụ án có yêu cầu kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

- Nắm được cách thức tiến hành phúc thẩm quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, so sánh được sự khác nhau căn bản trong thủ tục phúc thẩm bản án sở thẩm và phúc thẩm quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.  Nội dung - Khái niệm và ý nghĩa thủ tục phúc thẩm - Kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm - Thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự - Thủ tục phúc thẩm các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và việc gửi bản án, quyết định phúc thẩm  Phương pháp Để giúp sinh viên hiểu rõ vấn đề giảng viên đi sử dụng phương pháp gọi tên vấn đề, kết hợp với phương pháp thuyết giảng. Bên cạnh đó, giảng viên sử dụng phương pháp đặt các câu hỏi phát vấn để kiểm tra kiến thức cũ và đánh giá khả năng nắm bắt bài học của người học. Ngoài ra đối với chương học này giảng viên sẽ áp dụng phương pháp mô phỏng một phiên tòa giả định trên lớp để sinh viên có thể vận dụng ngay sau nội dung bài học.  Tài liệu học tập - Bộ luật tố tụng dân sự 2015 - Bộ luật dân sự 2015 - Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân. - Nghị quyết số: 01/2017/NQ-HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự do Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. - Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.

8.1.

KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC PHÚC THẨM

8.1.1. Khái niệm phúc thẩm dân sự Sau khi bản án sơ thẩm được tuyên, đương sự, Viện kiểm sát có một khoảng thời gian để thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án đó trong trường hợp không đồng ý với phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm. Việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị được gọi là thủ tục xét xử phúc thẩm. Phúc thẩm dân sự là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Thủ tục phúc thẩm là một trong các thủ tục tố tụng được quy định ngay từ những văn bản đầu tiên của Nhà nước ta về tố tụng dân sự. Trong Sắc lệnh số 41 ngày 17/4/1946 quy định sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án đã quy định Tòa án đệ nhị cấp có thẩm quyền phúc thẩm đối với các bản án, quy định sơ thẩm của Tòa án sơ thẩm, tòa thượng thẩm có thẩm quyền chung thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án đệ nhị cấp. Tòa án cấp phúc thẩm có một số đặc điểm phân biệt với Tòa án các cấp khác ở chỗ: -

Cơ sở phát sinh thủ tục phúc thẩm dân sự là dựa trên kháng cáo hợp lệ của

đương sự hoặc kháng nghị hợp lệ của Viện kiểm sát -

Việc xét xử phúc thẩm do Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ

thẩm thực hiện. -

Tính chất cửa phúc thẩm dân sự là xét xử lại vụ án dân sự mà một phần hoặc

toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. 8.1.2. Ý nghĩa của phúc thẩm dân sự - Thứ nhất, việc phúc thẩm bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc khắc phục những sai lầm có thể có trong những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án, bảo đảm cho quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân cũng như các lợi ích công cộng được thực hiện trong thực tế. - Thứ hai, thông qua việc xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp trên có thể kiểm tra hoặt động xét xử của Tòa án cấp dưới, qua đó có thể chỉ đạo một cách kịp thời, thống nhất việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử tại các Tòa án ở địa phương. - Thứ ba, thông qua việc xét xử Tòa án còn có thể phát hiện các bất cập của pháp luật, từ đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

8.2.

KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM

8.2.1. Khái niệm kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm Việc kháng cáo, kháng nghị của các chủ thể hiện nay được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 271 đến Điều 284 BLTTDS năm 2015. Tòa án cấp phúc thẩm không đương nhiên xét xử lại vụ án mà Tòa án sơ thẩm đã xét xử. Việc xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm chỉ được thực hiện khi có kháng cáo của đương sự hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát trong thời hạn luật định. Theo đó “kháng cáo” là hoạt động tố tụng của đương sự và các chủ thể khác theo quy định của pháp luật trong việc yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu ực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm. Còn “kháng nghị” theo thủ tục phúc thẩm là hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật trong việc đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. 8.2.2. Người có quyền kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm Theo quy định tại Điều 271 BLTTDS năm 2015, người có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là: (1) các đương sự, (2) người đại diện của đương sự; (3) Cơ quan, tổ chức đã khởi kiện vụ án dân sự. Người có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm dân sự trước tiên phải là người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án dân sự, chỉ những chủ thể nào đã tham gia tố tụng ở cấp sơ thẩm, có tên trong bản án, quyết định sơ thẩm mới có quyền kháng cáo. Ngoài ra người thực hiện việc kháng cáo là cá nhân có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự nên trong trường hợp đương sự là cá nhân đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì họ có thể tự kháng cáo hoặc ủy quyền cho người khác kháng cáo55 Theo quy định tại Điều 278A BLTTDS năm 2015, người có quyền kháng nghị là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên trực tiếp. Ví dụ TAND huyện X tỉnh Y tiến hành xét sử sơ thẩm vụ án dân sự. Bản án sơ thẩm có thể bị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện X, hoặc Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tỉnh Y kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. 8.2.3. Đối tượng kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm Đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, cụ thể: 55 Xem Điều 2 Nghị quyết sô 06/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân

-Các bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; -Các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật Các quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm như quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định chuyển vụ án cho Tòa án khác giải quyết, quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự, quyết định đưa vụa án ra xét xử không phải là đối tượng của kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu không đồng ý với các quyết định này thì các đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị chính Tòa án đã ra quyết định xem xét lại quyết định của mình. 8.2.4. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm Thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là khoảng thời gian do pháp luật quy định cho người kháng cáo, Viện kiểm sát được kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm 8.2.4.1.

Thời hạn kháng cáo

Theo quy định tại Điều 273 BLTTDS năm 2015, thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án đối với đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm hoặc là ngày bản án sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết đối với đương sự không có mặt tại phiên toà sơ thẩm. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của BLTTDS năm 2015. Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ

đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó (khoản 5, 6 Điều 148 BLDS năm 2015). Ví dụ: Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày được tính bắt đầu từ ngày 02-10-2018. Theo quy định tại khoản 1 Điều 245 của BLTTDS, thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày (đối với đương sự có mặt tại phiên toà) kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ ngày 16-10-2018 (nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần, ngày nghỉ lễ). Giả sử, ngày 1610-2018 là ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ ngày 17-10-2018 (nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần); giả sử sau ngày nghỉ lễ (17-10-2018), ngày 18-10-2018 đúng vào ngày thứ bảy, thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ ngày 20-10-2018.

Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận Nếu kháng cáo ngoài thời hạn quy định của pháp luật là kháng cáo quá hạn. Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Phiên họp xem xét kháng cáo quá hạn phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và người kháng cáo quá hạn. Trường hợp người kháng cáo, Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc kháng cáo quá hạn, ý kiến của người kháng cáo quá hạn, đại diện Viện kiểm sát tại phiên họp, Hội đồng xét kháng cáo quá hạn quyết định theo đa số về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định cho người kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp; nếu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy định.

8.2.4.2. Thời hạn kháng nghị Theo quy định tại Điều 280 BLTTDS năm 2015, thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 01 tháng, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án. Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị bản án sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án, trong trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên toà sơ thẩm hoặc là ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án sơ thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp không tham gia phiên toà sơ thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày , của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định. Khi Tòa án nhận được quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát mà quyết định kháng nghị đó đã quá thời hạn quy định thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu Viện kiểm sát giải thích bằng văn bản và nêu rõ lý do. 8.2.5. Hình thức kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm 8.2.5.1.

Hình thức kháng cáo

Việc kháng cáo phải được người có quyền kháng cáo thực hiện trong thời hạn luật định và bằng một đơn kháng cáo, có nội dung chính được quy định tại Điều 272 BLTTDS năm 2015. Bao gồm: Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo; kháng cáo toàn bộ hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo; chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. Người kháng cáo là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người kháng cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ.

Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không phải là người có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi của mình đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình là đương sự trong vụ án về tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự đó có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của đương sự có kháng cáo. Đồng thời, ở phần cuối đơn kháng cáo, đương sự đó phải ký tên hoặc điểm chỉ. Người kháng cáo là cá nhân thuộc hai trường hợp trên nếu không tự mình kháng cáo thì có thể ủy quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền của người kháng cáo, của người kháng cáo ủy quyền kháng cáo; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo ủy quyền kháng cáo và văn bản ủy quyền. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ. Người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của đương sự là cơ quan, tổ chức; họ, tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo pháp luật phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó, trường hợp doanh nghiệp kháng cáo thì việc sử dụng con dấu theo quy định của Luật doanh nghiệp. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy quyền cho người khác kháng cáo thì tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền, của đương sự là cơ quan, tổ chức ủy quyền; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của đương sự là cơ quan, tổ chức ủy quyền; họ, tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức đó và văn bản ủy quyền. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ. Người đại diện theo pháp luật của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo pháp luật; họ, tên, địa chỉ của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo pháp luật phải ký tên hoặc điểm

chỉ. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo thì tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền và văn bản ủy quyền; họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền; họ, tên, địa chỉ của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ. Việc ủy quyền phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc người được Chánh án Tòa án phân công. Trong văn bản ủy quyền phải có nội dung đương sự ủy quyền cho người đại diện theo ủy quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án đó phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của Bộ luật này. Kèm theo đơn kháng cáo, người kháng cáo phải gửi tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp. 8.2.5.2.

Hình thức kháng nghị

Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị bằng quyết định kháng nghị và có các nội dung chính được quy định tại Điều 279 BLTTDS năm 2015. Quyết định kháng nghị phải được gửi ngay cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị để Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy định và gửi hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 283 của Bộ luật TTDS năm 2015. Kèm theo quyết định kháng nghị là tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ và hợp pháp. 8.2.6. Hậu quả của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm Bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc những phần bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay.

Bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc những phần bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: -

Độc lập với những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng

nghị; -

Việc xét kháng cáo, kháng nghị đối với những phần của bản án, quyết định sơ

thẩm bị kháng cáo, kháng nghị không có liên quan đến những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị. Ví dụ: Tại bản án số 35/2018/HNGĐ-ST ngày 15-02-2018, Toà án nhân dân huyện H, tỉnh HT đã quyết định cho anh A được ly hôn chị B; giao chị B trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu C, anh A phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng và chia tài sản chung của vợ chồng cho anh A và chị B. Sau khi xét xử sơ thẩm anh A không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị. Chị B chỉ kháng cáo bản án sơ thẩm về quyết định chia tài sản chung của vợ chồng. Như vậy, những phần của bản án sơ thẩm về ly hôn giữa anh A và chị B; về trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn không bị kháng cáo, kháng nghị, độc lập với phần bản án sơ thẩm bị chị B kháng cáo và việc xét kháng cáo phần bản án sơ thẩm này không có liên quan đến những phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị; do đó những phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật và được thi hành. 8.2.7. Thay đổi, bổ sung và rút kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm Trường hợp vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị thì người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung nội dung kháng cáo, kháng nghị đối với phần bản án hoặc toàn bộ bản án mà mình có quyền kháng cáo, kháng nghị. Trường hợp người kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị nhưng sau đó có kháng cáo, kháng nghị lại mà vẫn còn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị, thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm theo thủ tục chung.

Trường hợp đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định thì trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị đã gửi cho Toà án trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền rút kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút kháng nghị. Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị khi có đủ các điều kiện sau đây: - Người kháng cáo rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút kháng nghị mà trong vụ án không còn có kháng cáo của người khác, không có kháng nghị của Viện kiểm sát đối với phần của bản án, quyết định sơ thẩm đó. - Phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị mà kháng cáo hoặc kháng nghị đó đã được rút độc lập với những phần khác của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và việc xét kháng cáo, kháng nghị này không liên quan đến phần bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo hoặc kháng nghị đã được rút. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn bản và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà. Toà án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung đối với kháng cáo, kháng nghị đã được thay đổi, bổ sung và phần kháng cáo, kháng nghị còn lại. 8.2.8.

Gửi hồ sơ vụ án cho tòa án cấp phúc thẩm Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị

và tài liệu, chứng cứ bổ sung kèm theo cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày: -Hết thời hạn kháng nghị; -Hết thời hạn kháng cáo, người kháng cáo đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Nếu có nhiều người kháng cáo và họ đều phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì thời hạn năm ngày làm việc để Toà án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị, tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Toà án cấp phúc thẩm được tính kể từ ngày người cuối cùng nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.

Đối với trường hợp kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ gửi hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm sai khi nhận được văn bản của Tòa án cấp phúc thẩm về việc chấp nhận lí do kháng cáo quá hạn 8.3.

THỦ TỤC PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ

8.3.1. Thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự Theo Điều 285 BLTTDS năm 2015, ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý. Mặc dù, BLTTDS không quy định Tòa án cấp phúc thẩm phải kiểm tra các điều kiện thụ lý phúc thẩm, bởi đó là trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm. Nhưng để tạo cơ sở giải quyết vụ án được đúng đắn, chính xác trước khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý cần phải kiểm tra các điều kiện như: Đối tượng kháng cáo, kháng nghị; người có quyền kháng cáo, kháng nghị và năng lực hành vi tố tụng dân sự của họ; phạm vi kháng cáo, kháng nghị; hình thức đơn kháng cáo, quyết đinh kháng nghị có đủ nội dung theo quy định của pháp luật hay không; thời han kháng cáo, kháng nghị. Nếu cảm thấy kháng cáo, kháng nghị hợp lệ, đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật thì Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành vào sổ thụ lý Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa. 8.3.2. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động tố tụng của Tòa án trong việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đưa vụ án dân sự ra xét xử tại phiên tòa phúc thẩm được chính xác, khách quan và đúng pháp luật. 8.3.2.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử Thời hạn chuẩn bị xét xử là một khoản thời gian để Tòa án có thể chuẩn bi các điều kiện cần thiết cho việc mở phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự. Trong thời hạn 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng trường hợp, Tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây:

- Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; - Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá 01 tháng. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Các quy định về thời hạn xét xử này không áp dụng đối với vụ án xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn, vụ án có yếu tố nước ngoài. 8.3.2.2. Công việc chuẩn bị xét xử phúc thẩm a. Thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công chủ tọa phiên tòa, Thư ký Tòa án Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán, trừ trường hợp xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn (việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành). Hội thẩm nhân dân không tham gia vào thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm, bởi tính chất của phúc thẩm dân sự là việc xét xử lại vụ án dân sự mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật nên đòi hỏi thành phần Hội đồng xét xử phải là những người có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ xét xử. Để xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn cung như nâng cao trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng thì việc thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm, phân công chủ tọa phiên tòa, Thư ký Tòa án cần phải thành lập thành văn bản. Tuy nhiên , pháp luật tố tụng dân sự chưa quy định rõ về vấn đề này. b. Thông báo về việc thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự Khoản 1 Điều 285 BLTTDS năm 2015 quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).Tuy nhiên, Luật TTDS chưa quy định nội dung, hình thức và cách thức thông baos việc thụ lý phúc thẩm vụ án dân

sự nên thực tiễn các Tòa án thường tiến hành theo thủ tục thông báo thụ lý sơ thẩm vụ án dân sự. c. Lập hồ sơ vụ án dân sự phúc thẩm Hồ sơ phúc thẩm vụ án dân sự bao gồm hồ sơ vụ án dân sự sơ thẩm, kháng cáo, kháng nghị, biên lại nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ mà đương sự, Viện kiểm sát uất trình, bổ sung, nếu có 56. Tổng quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, nếu qua nghiên cứu kháng cáo, kháng nghị và hồ sơ sơ thẩm vụ án thấy cần thiết phải có các tài liệu, chứng cứ làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án để giải quyết kháng cáo, kháng nghị thì Thẩm phán có quyền yêu cầu đương sự cung cấp bổ sung chứng cứ vì nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc về đương sự và cũng là biện pháp tốt nhất để đương sự bảo veej quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. d. Nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự Mặc dù, pháp luật TTDS hiện hành không quy định cụ thể song khi nghiên cứu hhoof sơ vụ án phúc thẩm, Thẩm phán cần phải tiến hành các công việc sau: - Kiểm tra lại tính hợp lệ kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm như: Đối tượng kháng cáo, kháng nghị; người có quyền kháng cáo, kháng nghị và năng lực hành vi tố tụng dấn sự của họ; phạm vi kháng cáo, kháng nghị; hình thức đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị; thời hạn kháng cáo, kháng nghị. - Nghiên cứu các vấn đề về tố tụng và nội dung vụ án dân sự. Thẩm phán nghiên cứu toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xác định Tòa án cấp sơ thẩm thu thập đầy đủ và hợp pháp không. Nếu các tài liệu, chứng cứ chưa có đủ thì thiếu những gì, việc thu thập sẽ tiến hành như thế nào, đặc biệt là các tài liệu, cứng cứ để làm rõ những vấn đề kháng cáo, kháng nghị. e. Chuyển hồ sơ vụ án dân sự cho viện kiểm sát Đối với những trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa phúc thẩm thì sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Hết thời hạn đó, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ vụ án cho Tòa án

56 Xem khoản 1 Điều 279 BLTTDS năm 2015

f. Ra các quyết định tố tụng cần thiết dân sự

Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án

Việc ra quyết định tạm đình chỉ phúc thẩm vụ án dân sự, hậu quả của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm và việc tiếp tục giải quyết vụa án sau khi có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụa án dân sự được thực hiện theo các quy định tương ứng về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm tại các điều 214, 215, 216 BLTTDS năm 2015. Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án có hiệu lực thi hành ngay và được gửi ngay cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, viện kiểm sát cùng cấp. - Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự Khoản 1, điều 289 bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc một phần vụ án trong các trường hợp sau đây: 

Các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 217 của

BLTTDS năm 2015;  kháng nghị;

Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ 

Người kháng cáo rút một phần kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút một phần

kháng nghị; 

Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Về hậu quả pháp lý của đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự quy định hậu quả pháp lý của quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự:



Trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát

rút toàn bộ kháng nghị trước khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm; trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Trong các trường hợp này, bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.



Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo hoặc Viện kiểm sát

rút một phần kháng nghị thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định về việc người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị và quyết định đình chỉ xét xử phần kháng cáo, kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm. Lưu ý: Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án có hiệu lực thi hành ngay và phải được gửi ngay cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp. - Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Chương VIII của BLTTDS năm 2015. -

Quyết định đưa vụ án ra xét xử

Khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, nếu không có căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm hoặc đình chỉ xét xử phúc thẩm thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Với các nội dung chính được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 290 BLTTDS năm 201857. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng. 8.3.3. Xét xử phúc thẩm 8.3.3.1. Phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án dân sự Theo Điều 293 BLTTDS năm 2015, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. “Có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị” là trường hợp việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị đối với phần này của bản án, quyết định sơ thẩm đòi hỏi phải xem xét, giải quyết đồng thời phần khác của bản án, quyết định sơ thẩm đó mặc dù phần này không bị kháng cáo, kháng nghị.

57 Xem thêm Mẫu số 66-DS Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm - Nghị quyết số: 01/2017/NQ-HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự do Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao

Ví dụ: Tại bản án số 45/2013/DS-ST ngày 17-3-2013, Toà án nhân dân huyện K, tỉnh TN đã quyết định xử chia di sản thừa kế của ông N cho năm thừa kế theo pháp luật của ông N. Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định các thừa kế của ông N phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do ông N để lại đối với ông B. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông B kháng cáo phần bản án sơ thẩm về thanh toán nghĩa vụ tài sản mà các thừa kế của ông N phải thực hiện đối với ông B trong khối di sản do ông N để lại. Trường hợp này việc giải quyết kháng cáo của ông B đòi hỏi phải xem xét đồng thời phần bản án về chia di sản thừa kế của ông N cho các thừa kế theo đúng quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 là người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại.58 8.3.3.2. Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm Theo quy định tại Điều 294 BLTTDS năm 2015, người kháng cáo, đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên tòa. Tòa án có thể triệu tập những người tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa nếu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị ở đây là những người chưa được tham gia tố tụng ở cấp sơ thẩm nhưng họ lại là những người có quyền, lợi ích hợp pháp hoặc nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên tòa phúc thẩm cho dù Viện kiểm sát không kháng nghị hoặc không tham gia phiên tòa sơ thẩm. 8.3.3.3. Hoãn phiên tòa phúc thẩm Tương tự như phiên tòa sơ thẩm, nhằm tạo điều kiện cho đương sự có thể tham gia phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, Viện kiểm sát thực hiện quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động tố tụng, Điều 296 BLTTDS năm 2015 quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm phải ra quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm trong các trường sau: - Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa phúc thẩm vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm.

58 Xem Điều 15 của Nghị quyết sô 06/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân

- Người kháng cáo, người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ. - Người kháng cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt thì bị coi như từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của người đó, trừ trường hợp người đó đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ. Trường hợp người kháng cáo vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa. - Trường hợp có nhiều người kháng cáo, trong đó có người kháng cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt nhưng không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì coi như người đó từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Trong phần quyết định của bản án, Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt đó. - Người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị và những người tham gia tố tụng khác đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Thời hạn hoãn phiên tòa và quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm là không quá 01 tháng, đối với phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục rút gọn là không quá 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa. Quyết định hoãn phiên tòa phải được chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ký tên và thông báo công khai tại phiên tòa; đối với người vắng mặt thì Tòa án gửi ngay cho họ quyết định đó, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. 8.3.3.4. Thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm Về căn bản, thủ tục phiên tòa phúc thẩm được tiến hành giống như thủ tục phiên tòa sơ thẩm: a.

Chuẩn bị khai mạc phiên tòa phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên tòa

Thủ tục chuẩn bị khai mạc phiên tòa phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm được áp dụng những quy định tương ứng trong phiên tòa sơ thẩm được quy định tại các Điều 237, 239, 240, 241 và 241 BLTTDS năm 2017

Sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm, một thành viên của hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội dung của bán án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị. Tiếp theo chủ tọa phiên tòa tiến hành hỏi các đương sự về các vấn đề sau: Hỏi nguyên đơn có rút đơn khởi kiện hay không; hỏi người kháng cáo, kiểm sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị hay không; hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị thì Tòa án chấp nhận việc rút kháng cáo, kháng nghị. Trường hợp người kháng cáo, Viện kiểm sát bổ sung nội dung mới vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu thì Tòa án không xem xét nội dung đó. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau: Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn; bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật. b. Trình bày tại phiên tòa Trường hợp có đương sự vẫn giữ kháng cáo, Viện kiểm sát vẫn giữ kháng nghị thì việc trình bày tại phiên tòa phúc thẩm được tiến hành như sau: - Trình bày kháng cáo, kháng nghị: 

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo trình bày

nội dung kháng cáo, căn cứ của việc kháng cáo. Người kháng cáo có quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp tất cả đương sự đều kháng cáo thì việc trình bày được thực hiện theo thứ tự người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn kháng cáo và nguyên đơn; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn kháng cáo và bị đơn; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; 

Trường hợp chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày

về nội dung kháng nghị, căn cứ của việc kháng nghị. Trường hợp vừa có kháng cáo, vừa có kháng nghị thì các đương sự trình bày về nội dung kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo trước, sau đó Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và các căn cứ của việc kháng nghị; 

Trường hợp đương sự không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

cho mình thì họ tự trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo và đề nghị của mình.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị. Đương sự có quyền bổ sung ý kiến. - Tại phiên tòa phúc thẩm, đương sự, Kiểm sát viên có quyền xuất trình bổ sung tài liệu, chứng cứ. Thủ tục hỏi và công bố tài liệu chứng cứ, xem xét vật chứng được thực hiện như phiên tòa sơ thẩm theo thứ tự: Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hỏi trước, tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; những người tham gia tố tụng khác; chủ tọa phiên tòa, hội thẩm nhân dân; và kiểm sát viên tham gia phiên tòa. c. Tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm Nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 247 NLTTDS năm 2015. Tại phiên tòa phúc thẩm, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ được tranh luận về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi tại phiên tòa phúc thẩm. - Trình tự tranh luận đối với kháng cáo được thực hiện như sau:  Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo trình bày. Người kháng cáo có quyền bổ sung ý kiến;  Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tranh luận, đối đáp. Đương sự có quyền bổ sung ý kiến;  Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể yêu cầu các đương sự tranh luận bổ sung về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ giải quyết vụ án. - Trình tự tranh luận đối với kháng nghị được thực hiện như sau:  Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phát biểu về tính hợp pháp, tính có căn cứ của kháng nghị. Đương sự có quyền bổ sung ý kiến;

 Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự đã nêu. Trường hợp đương sự không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ tự mình tranh luận. Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự và người tham gia tố tụng khác thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp. Sau khi kết thúc việc tranh luận và đối đáp, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án. d. Nghị án và tuyên án Việc nghị án, trở lại việc hỏi và tranh luận, thời gian nghị án, tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện như thủ tục xét xử sơ thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. 8.3.3.5. Quyền hạn của hội đồng xét xử phúc thẩm Xét xử phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai và sau cùng của Tòa án cấp phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm nhằm mục đích kiểm tra, khắc phục những sai lầm, thiếu sót nếu có trong quá trình xét xử vụ án dân sự lần đầu. Theo quy định tại Điều 308 BLTTDS năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm có những quyền hạn sau: - Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo hoặc kháng nghị trong trường hợp kháng cáo, kháng nghị không có căn cứ và Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng. - Sửa bản án sơ thẩm; Nếu qua việc xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử thấy Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật thì Hội đồng xét xử có thể sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu Tòa án cấp sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong các trường hợp sau đây:  Việc thu thập chứng cứ và chứng minh đã được thực hiện đầy đủ và theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này.  Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại phiên tòa phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ.

- Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:  Việc thu thập chứng cứ và chứng minh không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này hoặc chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được.  Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. - Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (Điều 217 BLTTDS năm 2015) và trường hợp bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. - Đình chỉ xét xử phúc thẩm (Điều 312 BLTTDS năm 2015) - Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có văn bản của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước. 8.4. THỦ TỤC PHÚC THẨM CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM VÀ VIỆC GỬI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH PHÚC THẨM 8.4.1. Thủ tục phúc thẩm các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm Khi phúc thẩm đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng phúc thẩm không phải mở phiên tòa, không phải triệu tập các đương sự, trừ trường hợp cần phải nghe ý kiến của họ trước khi ra quyết định. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án có quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án phải mở phiên họp phúc thẩm để xem xét quyết định đó; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp phúc thẩm. Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp, trừ trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị. Một thành viên của Hội đồng phúc thẩm trình bày tóm tắt nội dung quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, nội dung của kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có).

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị trước khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết định. Khi xem xét quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng phúc thẩm có quyền: 

Giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm;



Sửa quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm;



Hủy quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa

án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án. Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định. 8.4.2. Việc gửi bản án, quyết định phúc thẩm Bản án, quyết định phúc thẩm được gửi cho người đã kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩ vụ liên quan đến việc kháng cáo , kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ và được chuyển giao cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Viện Kiểm sát cùng cấp, Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền nhằm mục đích để thi hành án dân sự. Theo Điều 315 BLTTDS năm 2015 trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Trường hợp Tòa án nhân dân cấp cao xét xử phúc thẩm thì thời hạn này có thể dài hơn, nhưng không quá 25 ngày.

CÂU HỎI ÔN TẬP Câu 1: Nhận định sau đây đúng hay sai ? Giải thích và nêu căn cứ pháp lý ? a. Đương sự là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ không được ủy quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm

SAI.Theo điều 271 thì Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

a. Đơn kháng cáo của đương sự phải được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết

SAI.Đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án đó phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của Bộ luật này. Căn cứ k7 đ 272 b. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị tối đa đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án.

SAI. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. K1Đ273 c. Trường hợp trước khi mở phiên toà phúc thẩm, các đương sự đã tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và yêu cầu Tòa án công nhận thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. d. Đương sự có quyền giao nộp chứng cứ tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. đúng K4D96 VS K1 D287 Câu 2: Phân biệt đình chỉ xét xử phúc thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm Câu 3: Bản án sơ thẩm của TAND huyện X tuyên xử: buộc anh B phải trả số tiền thuê nhà tháng 12/2018 cho chị C là 15 triệu đồng. Chị C kháng cáo với yêu cầu Tòa án phúc thẩm xét xử lại vụ án, buộc anh B trả số tiền thuê nhà còn nợ là 20 triệu đồng (hai tháng 11, 12/2018). Anh B kháng cáo không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm. a. Giả sử trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, anh Bình yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu buộc chị Mai thanh toán số tiền 5 triệu đồng anh Bình đã bỏ ra để sửa chữa nhà trong thời gian thuê, cho biết hướng giải quyết của Tòa án trong trường hợp này. b. Giả sử trong quá trình giải quyết vụ án, chị Mai rút đơn kháng cáo, cho biết hướng giải quyết của Tòa án trong trường hợp này.

Chương 9 THỦ TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT  Mục tiêu Sau khi tìm hiểu về nội dung chương 9: Thủ tục xét lại bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, sinh viên có khả năng hiểu và nắm được những nội dung căn bản: - Nắm được thủ tục xét lại bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Bao gồm: Việc hiểu được các căn cứ để yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm; thẩm quyền đề nghị cũng như kháng nghị và giải quyết giám đốc thẩm, tái thẩm; Các giai đoạn tiến hành việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. - Phân biệt được thủ tục xét lại bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm với thủ tục tái thẩm. - Nắm được thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, phân biệt với các giai đoạn và hình thức xét xử khác.  Nội dung - Thủ tục giám đốc thẩm dân sự - Thủ tục tái thẩm dân sự - Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao  Phương pháp

Để giúp sinh viên hiểu rõ vấn đề giảng viên đi sử dụng phương pháp gọi tên vấn đề, kết hợp với phương pháp thuyết giảng. Bên cạnh đó, giảng viên sử dụng phương pháp đặt các câu hỏi phát vấn để kiểm tra kiến thức cũ và đánh giá khả năng nắm bắt bài học của người học.  Tài liệu học tập - Bộ luật tố tụng dân sự 2015 - Bộ luật dân sự 2015 - Nghị quyết số: 01/2017/NQ-HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự do Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. 9.1. THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM DÂN SỰ 9.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của giám đốc thẩm dân sự a. Khái niệm giám đốc thẩm dân sự Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cá nhân, cơ quan, tổ chức tôn trọng và triệt để thi hành.Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi bản án, quyết định của Tòa án đều bảo đảm tính đúng đắn nên khô ng thể thi hành mà cần có cơ chế khắc phục. Ở Việt Nam, thủ tục xét lại các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án lần đầu được quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, được gọi là thủ tục giám đốc thẩm và chỉ có Tòa án nhân dân tối cao mới có quyền giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các câp. Kể từ khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 được ban hành đến nay thủ tục xét lại các bản án, quyết định dấn sự đã có hiệu lực pháp luật được tách thành hai thủ tục giám đốc thẩm dân và tái thẩm dân sự. Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự được tiến hành trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền khi phát hiện có sự sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự. Tóm lại, giám đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có sai sót, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án. b. Ý nghĩa của giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự - Gúp cho tòa án cấp trên thấy được những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án cấp dưới trong việc giải quyết từng vụ án cụ thể, trên cơ sở đó có hướng khắc phục, sữa chữa những sai lầm, vi phạm pháp luật của tòa án cấp dưới trong việc giải quyết vụ án - Thủ tục giám đốc thẩm còn là phương tiện hướng dẫn hoạt động xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới; bảo đảm việc áp dụng đứng và thống nhất các quy định của pháp luật trong hoạt động xét xử của các tòa án. 9.1.2. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là hoạt đông tố tụng của người có thẩm quyền của Tòa án, Viện kiểm sát trong việc phản đối bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật yêu cầu tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đó khi phát hiện được sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. 9.1.2.1. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm quyền kháng nghị. Kể cả trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị, để những người này xem xét kháng nghị bản án, quyết định đó. Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Điều 331 BLTTDS năm 2015, bao gồm: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. 9.1.2.2. Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là những bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện thấy sai lầm, vi phạm pháp luậ trong việc giải quyết vụ án dân sự. Theo quy định tại các Điều 213, 313, 324, 349 v.v BLTTDS năm 2015 thì các bản án, quyết định này bao gồm: Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị; Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án. Tuy nhiên, đối với quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vì Hội đồng thẩm phán TANDTC là cơ quan xét xét xử cao nhất của nước CHXHHCN Việt Nam. 9.1.2.3. Căn cứ đề kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Điều 326 BLTTDS năm 2015. Théo đó, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau: - Một là, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là trường hợp Tòa án đánh giá sai về các sự kiện, tình tiết của vụ việc nên quyết định giải quyết vụ án không đúng bản chất của sự việc. Được thể hiện dưới dạng chưa đủ các chứng cứ, tài liệu để giải quyết vụ án nhưng Tòa án vẫn giải quyết vụ án nên quyết định của Tòa án là thiếu cơ sở; Tòa án đánh giá sai chứng cứ, tài liệu của vụ án nên quyết định giải quyết vụ án sai.

- Hai là, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật; Vi phạm thủ tục tố tụng là trường hợp khi giải quyết vụ án dân sự, Tòa án áp dụng sai các quy phạm pháp luật tố tụng nên đã không thực hiện đúng các thủ tục tố tụng. Trong pháp luật tố tụng dân sự, không có quy định thế nào là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy vậy trên thực tế, các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thường được hiểu dưới các dạng như vi phạm các nguyên tắc cơ bản quy định tại Chương 2 BLTTDS năm 2015; thành phần Hội đồng xét xử không đúng quy định của pháp luật, xác định sai tư cách hoặc bỏ sót đương sự, ra các quyết định không có căn cứ, Tòa án không hòa giải trước khi xét xử v.v… thường được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. - Ba là, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Pháp luật tố tụng dân sự không giải thích rõ thế nào là vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, song trên thực tế, sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật thường thể hiện dưới dạng Tòa án áp dụng văn bản pháp luật không đúng, không còn hiệu lực hoặc áp dụng không đúng điều luật, không đúng nội dung quy định của điều luật…. Tuy nhiên, trong tố tụng dân sự, đương sự có quyền tự định đoạt nên người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chỉ kháng nghị khi có một trong các căn cứ do pháp luật quy định và có đơn đề nghị của đương sự hoặc có thông báo, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật. trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật xâm phạm đến lợi ích công cộng, lơi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì không cần phải có đơn đề nghị. Hậu quả của việc kháng nghị sẽ dẫn đến việc tòa án có thẩm quyền xét lại bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật và tạm đình chỉ việc thi hành án. Trước khi kháng nghị cần cân nhắc, nghiên cứu xác định kỹ căn cứ kháng nghị để tránh việc kháng nghị không đúng. Đối với những bản án, quyết định tuy có sai lầm nhưng thực tế không sửa chữa được thì không nên kháng nghị. Ví dụ: Bản án cho ly hôn không có căn cứ nhưng một bên đã đăng kí kết hôn với người khác, hiện nay pháp luật không có quy định rõ về vấn đề này. 9.1.2.4. Thời hạn kháng nghị, thay đổi, bổ sung và rút kháng nghị Với mục đích đảm bảo sự ổn định của bản án, quyết định của Tòa án và việc xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm được tốt, sớm sửa chữa những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án trong việc giải quyết vụ án, bảo vệ quyền lợi của các đương sự, việc kháng nghị cần được tiến hành trong một thời gian nhất định Theo Điều 334 BLTTDS năm 2015, việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được tiến hành trong thời hạn 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:

- Đương sự đã có đơn đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị xem xét kháng nghị và sau khi hết thời hạn kháng nghị đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị; - Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật Ngoài ra, để tránh việc giải quyết yêu cầu kháng nghị không cần thiết, pháp luật quy định việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị. Người đã kháng nghị giám đốc thẩm có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung phải được thực hiện bằng quyết định. Người đã kháng nghị có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm. Việc rút kháng nghị phải được thực hiện bằng quyết định. (Điều 335 BLTTDS năm 2015). 9.1.3. Xét xử giám đốc thẩm 9.1.3.1. Thẩm quyền giám đốc thẩm Theo quy định tại Điều 337 BLTTDS năm 2015, TANDTC, Tòa án nhân dân cấp cao mới có thẩm quyền giám đốc thẩm các bản án, quyết định giải quyết vụ án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Cụ thể: - Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị - Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị. Trường hợp những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự cùng thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao thì Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm toàn bộ vụ án. 9.1.3.2. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Trong Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Thành phần Hội đồng xét xử giám đốc thẩm được quy định tại Điều 66 và Điều 337 BLTTDS năm 2015 như sau: - Trường hợp Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, thì Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán đối với bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngoài ra, trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có tính chất phức tạp hoặc bản án, quyết định đã được Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán nhưng không đạt được sự thống nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án thì ủy ban thẩm phán TANND cấp cao toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc thẩm gồm toàn bộ ủy ban thẩm phán TAND cấp cao - Trường hợp Hội đồng thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm thì Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán. Trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng có tính chất phức tạp hoặc bản án, quyết định đã được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán nhưng không đạt được sự thống nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc

giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm gồm toàn thể Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Những vụ án có tính chất phức tạp nêu trên là những vụ án thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Thứ nhất, quy định của pháp luật về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án chưa rõ ràng, chưa được hướng dẫn áp dụng thống nhất; - Thứ hai, việc đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật có nhiều ý kiến khác nhau; - Thứ ba, việc giải quyết vụ án liên quan đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền công dân được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. 9.1.3.3. Những người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm theo quy định pháp luật (Điều 338 BLTTDS năm 205) những người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, bao gồm: -Phiên tòa giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp. -Trường hợp xét thấy cần thiết, Tòa án triệu tập đương sự hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm; nếu họ vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm vẫn tiến hành phiên tòa. 9.1.3.4. Chuẩn bị mở phiên tòa giám đốc thẩm Theo Điều 339 BLTTDS năm 2015 quy đinh trong thời hạn 04 tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án, Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm phải mở phiên tòa để xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau khi nhận được kháng nghị, Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án mình nghiên cứu chuẩn bị xét xử. Chánh án Tòa án phân công một thẩm phán là thành viên của Hội đồng xét xử chịu trách nhiệm chính trong việc chuẩn bị xét xử. Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán làm bản thuyết trình về vụ án tại phiên tòa. Bản thuyết trình tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các cấp Tòa án, nội dung của kháng nghị. Bản thuyết trình phải được gửi cho các thành viên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chậm nhất là 07 ngày trước ngày mở phiên tòa giám đốc thẩm. 9.1.3.5. Thủ tục tiến hành phiên tòa giám đốc thẩm Phiên tòa giám đốc thẩm không xét xử công khai, được tiến hành trên cơ sở các bước: - Chủ tọa khai mạc phiên tòa - Thành viên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết định của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị thì đại diện Viện kiểm sát trình bày nội dung kháng nghị. - Đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác được Tòa án triệu tập đến phiên tòa giám đốc thẩm trình bày ý kiến về những vấn đề mà Hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu. Trường hợp họ vắng mặt nhưng có văn bản trình bày ý kiến thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm công bố ý kiến của họ.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về quyết định kháng nghị và việc giải quyết vụ án. - Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án. - Các thành viên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phát biểu ý kiến và thảo luận. - Hội đồng xét xử giám đốc thẩm nghị án và biểu quyết về việc giải quyết vụ án và công bố nội dung quyết định về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa. Việc nghị án phải được thực hiện theo các nguyên tắc:  Chỉ có các thành viên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm mới có quyền nghị án.  Khi nghị án, các thành viên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, nếu vụ án thuộc trường hợp không có điều luật áp dụng thì còn phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề.  Khi biểu quyết, các thành viên khác của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án. - Trường hợp Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử bằng một hội đồng gồm xét xử gồm ba thẩm phán thì quyết định của Hội đồng xét xử phải được tất cả thành viên tham gia Hội đồng biểu quyết tán thành. Trường hợp Uỷ ban thẩm phán tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc thẩm gồm toàn thể Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp thì phiên tòa xét xử của toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Ủy ban Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. - Trường hợp Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử gồm 5 thẩm phán thì quyết định của Hội đồng xét xử phải được tất cả thành viên tham gia Hội đồng biểu quyết tán thành. Trường hợp HĐTPTANDTC xét xử giám đốc thẩm gồm toàn thể HĐTPTANDTC thì phiên tòa xét xử của toàn thể Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Hội đồng Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. 9.1.3.6. Quyền hạn của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Theo quy định tại Điều 343 BLTTDS năm 2015 quy định quyền hạn của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm. Bao gồm: - Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; - Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; Ví dụ: Khi xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao có thể hủy bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và giữa nguyên bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện đã bị bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh sửa hoặc bị hủy.

- Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm trong trường hợp sau đây:  Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ hoặc không theo đúng quy định pháp luật;  Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật;  Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không đúng quy định của pháp luật hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. - Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án. trường hợp quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với trường hợp sự việc không thuộc thẩm quyền của Tòa án thì Tòa án cần hướng dẫn đương sự yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã thi hành được một phần hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án. - Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, khi có đủ các điều kiện sau đây:  Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ, rõ ràng; có đủ căn cứ để làm rõ các tình tiết trong vụ án;  Việc sửa bản án, quyết định bị kháng nghị không làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã thi hành được một phần hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án. 9.1.3.7. Quyết định giám đốc thẩm Khi xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, Tòa án ra quyết định giám đốc thẩm. Quyết định giám đốc thẩm phán có các nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 348 BLTTDS năm 2015. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực thi hành ngay. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải gửi quyết định giám đốc thẩm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân sau đây: -Đương sự, người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quyết định giám đốc thẩm; -Tòa án ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; - Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền. Quyết định giám đốc thẩm được Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có), trừ quyết định có chứa thông tin có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu chính đáng của đương sự nhưng phải thông báo cho đương sự biết những tài liệu, chứng cứ không được công khai.

9.2. THỦ TỤC TÁI THẨM DÂN SỰ 9.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của tái thẩm dân sự Tương tự như giám đốc thẩm, tái thẩm cũng là thủ tục đặc biêt xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Tái thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị do mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà Tòa án và các đương sự đã không biết được khi Tòa án giải quyết vụ án. Thủ tục tái thẩm lần đầu được quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1981, hiện nay Thủ tục tái thẩm được quy định tại Chương XXI BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thủ tục tái thẩm có ý nghĩa quan trọng đối với cả việc giải quyết vụ án dân sự của Tòa án và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp đương sự, bao gồm: - Việc tái thẩm giúp cho Tòa án khắc phục được những thiếu sót trong những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật không phụ thuộc vào thời gian bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và được thi hành từ bao giờ. - Đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án có căn cứ và hợp pháp, từ đó có tác dụng bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án. 9.2.2. Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là hoạt động của người có thẩm quyền của Tòa án, Viện kiểm sát tỏng việc yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật do phát hiện được tình tiết mới làm thay đổi nọi dung vụ án dân sự. 9.2.2.1. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm Đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có quyền phát hiện tình tiết mới của vụ án và thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị. Trong trường hợp phát hiện tình tiết mới của vụ án, Viện kiểm sát, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị biết để họ em xét việc kháng nghị. Người có quyền kháng nghị tái thẩm bao gồm: - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. - Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định tái thẩm. 9.2.2.2. Đối tượng kháng nghị theo thủ tục tái thẩm Đối tượng kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là những bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án trước đó Tòa án và các đương sự không thể biết được khi giải quyết vụ án dân sự. Giống như ở thủ tục giám đốc thẩm, đối tượng kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bao gồm tất cả các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, trong quyết định giám đốc thẩm của HĐTPTANDTC. Tuy nhiên, khác với giám đốc thẩm, những bản án, quyết định là đối tượng kháng nghị

theo thủ tục tái thẩm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án có thể không có sai lầm, vi phạm pháp luật. Do đương sự, Tòa án đã không thể biết được khi giải quyết vụ án và không xác định được mối liên quan của nó với việc ra bản án, quyết định thì những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật này vẫn được coi là đúng đắn. 9.2.2.3. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm Các căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hiện được quy định tại Điều 352 BLTTDS năm 2015. Theo đó, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau: - Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án; “Tình tiết quan trọng” trong căn cứ này phải là những tình tiết làm thay đổi nội dung của vụ án. Tuy nhiên cần xét đến các vấn đề sau:  Tình tiết mới được phát hiện phải là tình tiết đã có vào lúc Tòa án giải quyết vụ án mà Tòa án và đương sự đã không thể biết được. Ví dụ: trong quá trình giải quyết vụ án chia di sản thừa kế các đương sự không biết được người để lại di sản thừa kế đã lập di chúc để lại toàn bộ khối di sản cho người con út, nên vụ án đã được giải quyết theo pháp luật. Mấy năm sau người con út mới phát hiện ra di chúc. Việc phát hiện ra di chúc là tình tiết mới quan trọng làm thay đổi bản chất của vụ án. Bản án nếu so với di chúc thì khác nhiều và kết luận của bản án đã làm thiệt hại đến lợi ích của thừa kế được chỉ định trong di chúc. Đây là tình tiết quan trọng để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.  Tình tiết mới được phát hiện phải là những tình tiết quan trọng, liên quan đến vụ án, làm thay đổi hẳn nội dung vụ án, làm cho bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không hợp pháp, không có căn cứ. - Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ; - Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; Cần phân biệt căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm “có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” với căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm “…cố ý kết luận trái pháp luật”. “Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” và “cố ý kết luận trái pháp luật” đều là áp dụng pháp luật không đúng, nhưng căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là xuất phát từ việc nhận thức của Thẩm phán về việc áp dụng pháp luật. Thẩm phán cho rằng mình áp dụng pháp luật là đúng nhưng thực tế là không đúng. Còn căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là Thẩm phán biết rõ việc kết luận của mình là không đúng pháp luật nhưng vẫn cứ kết luận. Đây là những trường hợp hồ sơ đã đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, các tình tiết trong vụ án và pháp luật rõ ràng, nhưng Thẩm phán lại xử không đúng pháp luật. - Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ. 9.2.2.4. Thời hạn kháng nghị, thay đổi, bổ sung và rút kháng nghị Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là 01 năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.

Người đã kháng nghị tái thẩm có quyền thay đổi, bổ sung quyết định kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 355 BLTTDS năm 2015. N gười đã kháng nghị có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định kháng nghị trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa tái thẩm (Điều 335, Điều 357, BLTTDS năm 2015) 9.2.3. Xét xử tái thẩm Nhìn chung, hầu hết các quy định liên quan đến việc xét xử giám đốc thẩm được áp dụng chung cho việc xét xử tái thẩm. Về quyền hạn của Hội đồng tái thẩm, theo quy đinh tại Điều 356 BLTTDS năm 2015, khi xem xét bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm, Hội đồng xét xử tái thẩm có các quyền như sau: - Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Điều này có nghĩa là trong trường hợp Hội đồng tái thẩm xét thấy việc kháng nghị không có hoặc không đủ cơ sở để chấp nhận do vậy không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. - Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung. Đây là trường hợp kết luận trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không phù hợp với sự thật khách quan và cần phải xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án dân sự được đúng đắn, công bằng và đúng pháp luật. - Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án. Khi có các căn cứ quy định tại Điều 217 BLTTDS năm 2015 thì Hội đồng xét xử tái thẩm có thẩm quyền hủy bản án, quyết định bị kháng nghị và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Ví dụ trường hợp nguyên đơn, bị đơn bị chết mà quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ không có người thừa kế; các đương sự đã tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. 9.3. THỦ TỤC ĐẶC BIỆT XEM XÉT LẠI QUYẾT ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO 9.3.1. Cơ sở của thủ tục đặc biệt xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phám Tòa án nhân dân tối cao Ở Việt Nam, HĐTPTANDTC là cơ quan xét xử cao nhất, do đó về nguyên tắc thì các quyết định giải quyết vụ việc dân sự đã có hiệu lực pháp luật của HĐTPTANDTC không thể xem xét lại. Như vậy, thực tiễn công tác giám đốc thẩm của TANDTC cũng đã phát hiện một số quyết định của HĐTPTANDTC có sai lầm nghiêm trọng. Việc tồn tại một quyết định về vụ án có sai lầm nghiêm trọng dù Tòa án nào cũng phương hại đến uy tín của cơ quan xét xử và không bảo đảm được việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Để khắc phục những vấn đề này, LSĐBSBL TTDS có bổ sung quy định thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định có sai lầm nghiêm trọng của HĐTPTAND tối cao. 9.3.2. Yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong thủ tục đặc biệt Theo quy định tại Điều 358 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) quy định về quyền và nghĩa vụ yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao như sau: Cơ quan có thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban tư pháp của Quốc hội; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

với tư cách là người đứng đầu cơ quan có chức năng giám sát hoạt động tư pháp và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, người lãnh đạo cao nhất của ngành Tòa án cũng có thể kiến nghị, đề nghị Hội đồng Thẩm phán xem xét lại quyết định của mình. Chủ thể có thẩm quyền tiếp nhận và thực hiện: Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Căn cứ thực hiện thủ tục đặc biệt: - Một là, việc xem xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao bao gồm các trường hợp sau: Có căn cứ xác định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng; phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, đương sự không biết được khi ra quyết định đó; - Hai là, các cơ quan có thẩm quyền kiến nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao bao gồm: (1) Ủy ban Thường vụ Quốc hội; (2) Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; (3) Viện trưởng VKSND tối cao; (4) Chánh án TAND tối cao. 9.3.3. Thủ tục và quyền hạn xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Sau khi tiếp nhận yêu cầu, đề nghị và gửi yêu cầu cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Căn cứ khoản 1 Điều 359 BLTTDS thì Tòa án nhân dân tối cao phải gửi cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao bản sao văn bản yêu cầu, kiến nghị hoặc đề nghị đó kèm theo hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến phát biểu tại phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị, yêu cầu, sau khi nhận được yêu cầu, đề nghị của cơ quan có thẩm quyền. Sau đó mở phiên họp để xem xét kiến nghị, đề nghị. Về thời hạn thực hiện là 01 tháng, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc kể từ ngày Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có văn bản đề nghị. Về thành phần tham dự phiên họp xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC - Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao - Đại diện Ủy ban tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao - Bắt buộc có sự tham dự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong trường hợp có kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phát hiện vi phạm, tình tiết mới thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị đó. Về thủ tục xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao. Việc xem xét kiến nghị, đề nghị theo trình tự tại Điều 359 BLTTDS như sau: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tự mình hoặc phân công một thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trình bày tóm tắt nội dung vụ án và quá trình giải quyết vụ án; Tiếp đến, Đại diện các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao trình bày về nội dung kiến nghị, đề nghị;

Kế tiếp, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án, chứng cứ cũ và chứng cứ mới bổ sung (nếu có) để làm rõ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc những tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thảo luận và biểu quyết theo đa số về việc nhất trí hoặc không nhất trí với kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Nếu nhất trí với kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định về việc mở phiên họp để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. phiên họp với sự tham gia của toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong thời hạn 04 tháng kể từ ngày nhận được yêu cầu. Đặc biệt phiên họp này phải có sự tham dự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát sự tuân thủ pháp luật khi tiến hành phiên họp và phát biểu quan điểm về việc có hay không có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và quan điểm về việc giải quyết vụ án. Về quyền hạn xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao. Căn cứ Điều 360 BLTTDS thì sau khi nghe Chánh án Tòa án nhân dân tối cao báo cáo, nghe ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan được mời tham dự (nếu có) và khi xét thấy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định thì tùy từng trường hợp, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định như sau khi được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành: - Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung vụ án; - Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Tòa án nhân dân tối cao có quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị hủy do lỗi vô ý hoặc cố ý và gây thiệt hại cho đương sự hoặc xác định trách nhiệm bồi hoàn giá trị tài sản theo quy định của pháp luật; - Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Nhận định sau đây đúng hay sai ? Giải thích và nêu căn cứ pháp lý ? a. Người đã kháng nghị tái thẩm có quyền tham gia phiên tòa tái thẩm. b. Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự có thể là đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. c. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền tạm đình chỉ thi hành án dân sự. d. Đương sự có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự hoãn thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. e. Trong trường hợp hết thời hạn 4 tháng kể từ ngày nhận được kháng nghị giám đốc thẩm, nếu có lý do chính đáng Tòa án có thẩm quyền có thể gia hạn thời hạn mở phiên tòa giám đốc thẩm. Câu 2: Phân biệt thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm ? Câu 3: Tại sao nói giám đốc thẩm và tái thẩm là những thủ tục tố tụng đặc biệt ?

Chương 10 THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ  Mục tiêu Sau khi tìm hiểu về nội dung chương 10: Thủ tục giải quyết việc dân sự sinh viên có khả năng hiểu và nắm được những nội dung căn bản: -

Nắm được thế nào là việc dân sự, nguyên tắc, thành phần và những

người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự

-

Biết và vận dụng được các thủ tục thụ lý, những công việc cần làm trong

giai đoạn chuẩn bị và giải quyết việc dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm -

Vận dụng được các quy định pháp luật trong việc giải quyết các việc dân

sự cụ thể như công nhận thuận tình ly hôn; tuyên bố người mát tích, đã chết, vắng mặt tại nơi cư trú…  Nội dung -

Những quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự - Thủ tục giải

quyết việc dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm -

Thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm - Thủ tục giải

quyết các việc dân sự cụ thể Phương pháp Để giúp sinh viên hiểu rõ vấn đề giảng viên đi sử dụng phương pháp gọi tên vấn đề, kết hợp với phương pháp thuyết giảng. Bên cạnh đó, giảng viên sử dụng phương pháp đặt các câu hỏi phát vấn để kiểm tra kiến thức cũ và đánh giá khả năng nắm bắt bài học của người học. Ngoài ra đối với chương học này giảng viên sẽ áp dụng phương pháp mô phỏng một phiên họp giải quyết việc dân sự giả định trên lớp để sinh viên có thể vận dụng ngay sau nội dung bài học. Tài liệu học tập -

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

-

Bộ luật dân sự năm 2015

-

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

-

Luật đất đai 2013…

-

Nghị quyết số: 01/2017/NQ-HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố

tụng dân sự do Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004. 10.1. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ 10.1.1. Nguyên tắc giải quyết việc dân sự Hiện nay, các yêu cầu dân sự được quy định tại các điều 27, 29, 31 và 33 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 mà được Tòa án thụ lý, giải quyết thì được gọi là việc dân sự. Việc dân sự có các đặc điểm sau: - Các đương sự không có tranh chấp về quyền, lợi íc hợp pháp do các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về các tình tiết của sự việc cũng như những quyền và lợi

ích giữa các đương sự và họ cùng yêu cầu Tòa án công nhận sự thỏa thuận đó. Ví dụ như các yêu cầ về công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con… - Các đương sự không có tranh chấp về quyền và lợi íc hợp pháp nhưng do tính chất đặc thù của loại việc và chỉ có một bên đương sự yêu cầu Tòa án xác định một sự kiện pháp lý, công nhận hoặc không công nhận quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Ví dụ yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, đã chết hoặc mất tích; yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Thủ tục giải quyết việc dân sự có thể hiểu là thủ tục của tố tụng dân sự, được Tòa án áp dụng để giải quyết các việc dân sự do pháp luật quy định theo một trình tự đơn giản, nhanh gọn.Theo đó, thủ tục giải quyết việc dân sự được tiến hành theo những nguyên tắc cơ bản quy định từ Điều 3 đến Điều 25 BLTTDS năm 2015 và các quy định khác của BLTTDS nếu không trái với quy định của Phần thứ sáu như các quy định về thẩm quyền giair quyết việc dân sự của Tòa án, thành phần giải quyết việc dân sự, chứng cứ và chứng minh, thời hiệu giải quyết yêu cầu, cấp, thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng.v.v… Về nguyên tắc, do đa số việc dân sự có đặc tính là các bên không có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ mà chỉ yêu cầu tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự nên có những điểm khác so với thủ tục giải quyết vụ án dân sự như thời hạn giải quyết việc dân sự thường ngắn hơn, thành phần giải quyết việc dân sự không có Hội thẩm nhân dân tham gia, đối với đa số các loại việc dân sự Tòa án thường không tổ chức hòa giải… 10.1.2. Thành phần giải quyết việc dân sự Thành phần giải quyết việc dân sự được pháp luật uy định có thể do một hoặc ba thẩm phán tiến hành. Đối với các việc dân sự, đương sự yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lí là căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ của họ việc giải quyết thường đơn giản,ít phức tạp hơn so với vụ án dân sự. Vấn đề chỉ còn ở chỗ áp dụng pháp luật để công nhận hay không công nhận các yêu cầu mà các bên đưa ra, vì vậy Điều 67 BLTTDS năm 2015 quy định việc giải quyết việc dân sự do một thẩm phán tiến hành. Đối với việc giải quyết yêu cầu hủy quyết định cua trọng tài thương mại do một tập thể gồm ba thẩm phán giải quyết. Tuy nhiên, Tòa án không giải quyết về mặt nội

dung các yêu cầu dân sự nhưng phải xem xét để công nhận hay hủy quyết định của một cơ quan tài phán khác vê việc giải quyết tranh chấp thương mại. Để tránh sự khiếu nại từ phía các đương sự thì Chánh ánTòa án không nên phân công thẩm phán đã ra quyết định việc chỉ định hoặc thay đổi trọng tài viên tham gia Hội đồng xét đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Ngoài ra đối với các yêu cầu đã được quy định tại khoản 5 Điều 27, khoản 9 Điều 29, khoản 4,5 Điều 31 và khoản 3,4 BLTTDS năm 2015 do tập thể gồm 3 thẩm phán giải quyết. 10.1.3. Những người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự Việc giải quyết việc dân sự được tiến hành công khai theo nguyên tắc trực tiếp và bằng lời nói. Tất cả những người có liên quan đến việc giải quyết việc dân sự phải được triệu tập tham gia phiên họp. Điều 367 BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án phải mở phiên họp công khai để giải quyết việc dân sự, Tòa án phải gửi ngay quyết định này và hồ sơ việc dân sự chô Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời gian 7 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ. Hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Tòa án đề mở phiên họp giải quyết việc dân sự Theo quy định, nhũng người sau đây phải tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự: - Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp. - Người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất: hoãn phiên họp - Người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất và có đơn yêu cầu đề nghị giải quyết việc dân sự vắng mặt họ: giải quyết việc dân sự vắng mặt họ. - Người có đơn yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt: đình chỉ giải quyết việc dân sự. Đương sự vẫn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đó theo thủ tục chung. Trong trường hợp này khoản tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự bị sung công quỹ nhà nước. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì tùy từng trường hợp mà Tòa án quyết định hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp.

10.2. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ TẠI TOÀ ÁN CẤP SƠ THẨM 10.2.1. Yêu cầu giải quyết việc dân sự Việc dân sự phát sinh do các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền yêu cầu của mình bằng việc nộp đơn trực tiếp tại Tòa án có thẩm quyền yêu cầu của mình bằng việc nộp đơn trực tiếp tại Tòa án có thẩm quyền hoặc gửi đơn qua đường bưu điện. Nội dung đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự phải được ghi đầy đủ, rõ ràng những vấn đề cơ bản theo quuy định tại khkoanr 2 Điều 362 BLTTDS năm 2015. Để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, người yêu cầu giải quyết việc dân sự phải gửi kèm theo đơn yêu cầu các chứng cứ, tài liệu cần thiết. 10.2.2. Thụ lí đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự Thủ tục thụ lí việc dân sự được quy định tại Điều 363 BLTTDS năm 2015, thủ tục pháp lý việc dân sự để đảm bảo cho việc giải quyết việc dân sự được thực hiện như sau: - Thủ tục nhạn đơn yêu cầu: Thủ tục nhận đơn yêu cầu được thực hiện tương tự như thủ tục nhận đơn khởi kiện theo quy định khoản 1 Điều 191 BTTDS năm 2015. - Xử lý đơn yêu cầu: trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo, chánh án Tòa án phân công Thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu. Thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu sẽ kiểm tra đơn yêu cầu về cả nội dung và hình thức. Trường hợp đơn yêu cầu chưa ghi đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 362 BLTTDS năm 2015 thì Thẩm phán yêu cầu người yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Thủ tục sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 193 của BLTTDS năm 2015. Trường hợp người yêu cầu thực hiện đầy đủ yêu cầu sửa đổi, bổ sung thì Thẩm phán tiến hành thủ tục thụ lý việc dân sự, nếu người yêu cầu không thực hiện dầy đủ yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong thời gian quy định thì Thẩm phán tiến hành trả lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp Tòa án đều thụ lý giải quyết việc dân sự khi nhận được đơn yêu câù. Theo đó, Điều 364 BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án trả lại đơn yêu cầu trong những trường hợp: - Người yêu cầu không có quyền yêu cầu hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; - Sự việc người yêu cầu yêu cầu đã được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết; - Việc dân sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;

- Người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu trong thời hạn quy định ; Người yêu cầu không nộp lệ phí trong thời hạn quy định tại điểm a khoản 4 Điều 363 của Bộ luật này, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp lệ phí hoặc chậm nộp vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan; - Người yêu cầu rút đơn yêu cầu; - Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Nếu xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đã đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán thực hiện như sau: - Thông báo cho người yêu cầu về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí; - Tòa án thụ lý đơn yêu cầu khi người yêu cầu nộp cho Tòa án biên lai thu tiền lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự; - Trường hợp người yêu cầu được miễn hoặc không phải nộp lệ phí thì Thẩm phán thụ lý việc dân sự kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu. 10.2.3. Chuẩn bị giải quyết việc dân sự Thời gian chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 1 tháng kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu, trừ trường hợp đối với những việc dân sự BLTTDS năm 2015 đã quy định cụ thể thời gian chuẩn bị giải quyết việc dân sự, trong trường hợp có quy định khác như được kéo dài tối đa thêm 1 tháng nếu hết thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu mà chưa có kết quả giám định, định giá tài sản. Để chuẩn bị việc giải quyết việc dân sự, thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu hoặc một thẩm phán trong hội đồng sẽ tiến hành các công việc sau: - Thông báo việc thụ lý đơn Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự, cho viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu - Nghiên cứu đơn yêu cầu và các chứng cứ, tài liệu do đương sự gửi kèm theo Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ của việc dân sự, thẩm phán thực hiện việc bảo quản, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng cứ v.v….Sau khi cchuaanr bị đầy đủ điều kiện đưa việc dân sự ra giải quyết thì Tòa án ra quyết định đưa việc dân sự ra phiên

họp giải quyết. Sau khi ra quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự Tòa án phải gửi ngay quyết định này cho người có yêu cầu, người có liên quan. Quyết đinh này và hồ sơ việc dân sự cũng được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để viện kiểm sát nghiên cứu tham gia phiên họp. Thời hnaj tối đa để viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ là 7 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ. Trong quá trình chuẩn bị giải quyết việc dân sự, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu, Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự. Ngoài ra, tùy từng trường hợp Thẩm phán sẽ ra các quyết định khác như tạm đình chỉ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. 10.2.4. Phiên họp giải quyết việc dân sự Phiên họp giải quyết việc dân sự được tiến hành theo trình tự sau đây: - Trước khi phiên họp được tiến hànhThư ký phiên họp báo cáo Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp; - Khi bắt đầu phiên họp, thẩm phán chủ tọa phiên hợp tuyên bố khai mạc phiên họp và đọc quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự; kiểm tra căn cước của những người được triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra về sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu tập tham gia phiên họp và căn cước của họ, giải thích quyền và nghĩa vụ của người tham gia phiên họp. Tiếp theo chủ tọa phiên họp sẽ giới thiệu họ , tên những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch và hỏi các đướng sự hoặc người đại diện của họ xem có ai yêu cầu thay đổi những người đó hay không. - Khi xét nộ dung của việc dân sự, thẩm phán chủ tọa phiên họp sẽ hỏi người có yêu cầu xem họ có rút yêu cầu hay không, nếu họ rút yêu cầu thẩm phán sẽ ra quyết định đình chỉ việc giải quyết việc dân sự. Tiếp đến Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu, người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày về những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đó; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày ý kiến về những vấn đề có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc giải quyết việc dân sự;

Người làm chứng trình bày ý kiến; người giám định trình bày kết luận giám định, giải thích những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn (nếu có); - Sau khi những người tham gia phiên họp trình bày ý kiến Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự có quyền hỏi thêm hoặc công bố lời khai của đương sự nếu họ vắng mặt tại phiên họp. Sau đó Thẩm phán hoawcj Hội đồng giải quyết việc dân sự đưa các tài liệu, chứng cứ của việc dân sự ra xem xét công khai tại phiên họp - Sau đó, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết việc dân sự và gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ việc dân sự ngay sau khi kết thúc phiên họp; - Cuối cùng Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự xem xét, quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự. Kết quả giải quyết việc dân sự tại phiên họp được thể hiện dưới hình thức một quyết định giải quyết việc dân sự. Quyết định giải quyết việc dân sự phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, người yêu cầu giải quyết việc dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định. Việc gửi quyết định giải quyết việc dân sự cho cơ quan thi hành án được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án dân sự. 10.3. THỦ TỤC PHÚC THẨM QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ 10.3.1. Chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án, người có yêu cầu, người có liên quan hoặc người đại điện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, cấp trên trực tiếp có quyền kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự với quyết định giải quyết việc dân sự đó. Tuy nhiên đối với các quyết định có hiệu lực pháp luật ngay, đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị, bao gồm: -

Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án;

-

Quyết định công nhận thuận tình li hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

-

Quyết định công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp

nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

Về thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 371 BLTTDS năm 2015 quy định như sau:

Chủ thể có quyền kháng cáo (người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định hoặc kể từ ngày nhận được quyết định hoặc từ ngày quyết định được thông báo, niêm yết. tiếp):

Chủ thể có quyền kháng nghị (Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực  Viện kiểm sát cùng cấp: trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định 

Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp: trong thời hạn 15 ngày kể từ

ngày ra quyết định 10.3.2. Việc xét lại quyết định bị kháng cáo, kháng nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét giải quyết kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là Tòa án cấp trên trực tiếp. Thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự bị kháng cáo, kháng nghị được thực hiện theo quy định từ Điều 371 đến Điều 375 BLTTDS năm 2015 10.3.2.1. Chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị Theo quy định tại Điều 373 BLTTDS năm 2015 thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án nhận kháng cáo, kháng nghị. Thời hạn này có thì được kéo dài thêm tối đa 15 ngày trong trường hợp hết thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị mà chưa có kết quả giám định, định giá. Trong thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị, Tòa án tiến hành các công việc sau đây: - Trường hợp xét thấy tài liệu, chứng cứ chưa đủ căn cứ để Tòa án giải quyết thì Tòa án yêu cầu đương sự bổ sung tài liệu, chứng cứ trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án; - Trường hợp đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ; triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá. Nếu hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này mà chưa có kết quả giám định, định giá thì thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị được kéo dài nhưng không quá 15 ngày; - Trong thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị, nếu tất cả người kháng cáo rút đơn kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc xét đơn yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm. Trong trường hợp này, quyết định giải quyết việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ;

- Quyết định mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự. Tòa án phải gửi ngay quyết định mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự và hồ sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu. Viện kiểm sát phải nghiên cứu trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Tòa án để mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Thẩm phán phải mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự 10.3.2.2.

Phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự

Để tiến hành phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự, theo quy định cần phải có sự tham gia của đương sự, Kiểm sát viên Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng khác nếu xét thấy cần thiết. Tùy thuộc vào địa vị tố tụng của từng chủ thể mà Tòa án ra quyết định hoãn phiên họp, đình chỉ giải quyết xét xử phúc thẩm việc dân sự hay vẫn tiến hành phiên họp trong trường hợp có người vắng mặt tại phiên họp. Cụ thể như sau: - Kiểm sát viên vắng mặt: Tòa án vẫn tiến hành phiên họp, trừ trường hơp Viện kiếm sát kháng nghị phúc thẩm - Người kháng cáo vắng mặt: 

Vắng lần thứ nhất có lý do chính đáng: hoãn phiên họp, trừ trường hợp

người kháng cáo yêu câu giải quyết vắng mặt họ 

Vắng mặt lần thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan

và không có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt: Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết phúc thẩm việc dân sự đối với yêu cầu kháng cáo. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì Tòa án quyết định hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp. Về thủ tục cụ thể tiến hành phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự được quy định cụ thể ở Điều 375 BLTTDS năm 2015. Lưu ý, tùy thuộc vào việc chỉ có kháng cáo, kháng nghị hay vừa có kháng cáo, kháng nghị mà thứ tự trình bày nội dung kháng cáo, kháng nghị của người kháng cáo, Viện kiểm sát được quy định khác nhau. Trường hợp chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và căn cứ của việc kháng nghị. Trường hợp vừa có

kháng cáo, vừa có kháng nghị thì các đương sự trình bày về nội dung kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo trước, sau đó Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và căn cứ của việc kháng nghị. Trường hợp Viện kiểm sát không kháng nghị thì Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết kháng cáo trước khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết định. Sau khi nghe nội dung trình bày các đương sự, Kiếm sát viên và các chủ thể tham gia tố tụng khác, xem xét các tài liệu, chứng cứ,… Hội đồng phúc thẩm có quyền ra một trong các quyết định sau đây: - Giữ nguyên quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm; Sửa quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm; - Hủy quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ việc dân sự cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm; - Hủy quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm và đình chỉ giải quyết việc dân sự; - Đình chỉ giải quyết việc xét đơn yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm nếu tại phiên họp tất cả người kháng cáo rút đơn kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị. Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định 10.4. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VIỆC DÂN SỰ CỤ THỂ 10.4.1. Thủ tục xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân a. Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi Thứ nhất, để Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, căn cứ vào Điều 376 BTTDS năm 2015, cần phải có các điều kiện sau: - Có đơn yêu cầu người có quyền lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan; hoặc của chính người thành niên không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi (áp dụng đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi ) - Nộp đơn yêu cầu, chứng cứ kèm theo (kết luận của cơ quan chuyên môn và các chứng cứ khác để chứng minh người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình; chứng cứ để chứng minh người đó nghiện ma túy hoặc chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình…) cho Tòa án có thẩm quyền.

Thứ hai, liên quan đến việc xét đơn yêu câu: theo Điều 377, 378 BLTTDS năm 2015 Tòa án ngoài tiến hành các công việc chuẩn bị giải quyết việc dân sự nêu trên, Tòa án còn tiến hành các công việc sau, bao gồm: - Trưng cầu giám định sức khỏe, bệnh tật của người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. - Lấy lời khai của người thân thích của người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi về tình trạng sức khỏe, khả năng nhận thức của người bị yêu cầu về tình hình của họ cũng như những giao dịch về tài sản mà họ đã thực hiện. Trong thời hạn này, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu. Khi hết thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu hoặc khi nhận được kết luận giám định, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu. Quyết định này được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, người có đơn yêu cầu và người có liên quan. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ Tòa án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu. Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Trong quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Tòa án phải xác định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. Trong quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, Tòa án phải chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. b. Thủ tục hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi Tương tự như thủ tục tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, để hủy bỏ các quyết định này cũng cần phải có đơn yêu cầu. Khi người bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi không còn ở trong tình trạng đã bị tuyên bố thì chính người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền

yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 379 BLTTDS năm 2015) kèm theo các chứng cứ, tài liệu chứng minh người bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi không còn ở trong tình trạng bi tuyên bố như hồ sơ, kết luận giám định, kết quả xét nghiệm, sổ bệnh án, kết quả theo dõi điều trị… 10.4.2. Thủ tục giải quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết a. Yêu càu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cứ trú cũng như yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt đó, cần những điều kiện sau: Có đơn yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan - Gửi đơn yêu cầu, chứng cứ kèm theo (xác nhận của cơ quan quản lý hộ tịch, của những người sống cùng với người đó trước khi vắng mặt, của người láng giềng, của tổ dân phố; chứng cứ chứng minh người bị yêu cầu thoong báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú biệt tích sáu tháng liền trở lên; tài liệu về tình hình tài sản của người đó, việc quản lý tài sản hiện có và danh sách những người thân thích của người đó) đến Tòa án có thẩm quyền Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu trong trường hợp này được thực hiện theo quy định chung. Trong thời hạn này, Tòa án ra quyết định đình chỉ xét đơn yêu cầu nếu người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm trở về và yêu cầu Tòa án đình chỉ xét đơn yêu cầu. Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú; trường hợp có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt đó tại nơi cư trú và được chấp nhận thì trong quyết định, Tòa án còn phải quyết định áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy định của Bộ luật dân sự. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, thông báo này phải được đăng trên một trong các báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp, Cổng thông tin điện tử của Tòa án, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (nếu có) và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp.

Chi phí cho việc đăng, phát thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú do người yêu cầu chịu. b. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích Người có quyền, lợi ích liên quan đến người biệt tích có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích. Đồng thời, người yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lí tài sản của người vắng mặt. Ví dụ: Anh M vay tiền của ngân hàng, đến hạn phải thực hiện nghĩa vụ nhưng M chưa thực hiện được nghĩa vụ và biệt tích khỏi nơi cư trú; trong trường hợp này, ngân hàng có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố M mất tích và áp dụng biện pháp quản lí tài sản. Người yêu cầu phải gửi kèm theo đơn yêu cầu các tài liệu chứng cứ như giấy xác nhận của chính quyền đại phương, cơ quan quản lí hộ tịch, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài hoặc giấy xác nhận của chính quyền địa phương, cơ quan quản lí hộ tịch, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài… Trong trường hợp trước đó đã có quyết định của Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú thì phải có bản sao quyết định đó. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích. Thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích là 04 tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên. Trong thời hạn thông báo, nếu người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trở về và yêu cầu Tòa án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn thông báo thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất tích; trường hợp có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích đó và được chấp nhận thì trong quyết định tuyên bố một người mất tích, Tòa án còn phải quyết định áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy định của Bộ luật dân sự. c. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết Thông thường, một người được xem là đã chết khi họ chấm dứt sự tồn tại về mặt sinh học. tuy nhiên trên thực tế có người biệt tích khỏi nơi cư trú trong một thời gian

dài, do những nguyên nhân khác nhau mà không thể xác định người đó đã chết hay còn sống, trường hợp này để bảo đảm quyền lợi của người biệt tích và những người khác nếu những người có liên quan có yêu cầu Tòa án tuyên bố người khác là đã chết (cái chết pháp lí). Đơn yêu cầu phải kèm theo tài liệu chứng cứ được thực hiện như trường hợp yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích theo quy định tại Điều 362 BLTTDS năm 2015. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm thông tin về người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết. Trong thời hạn thông báo, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu hoặc người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết trở về và thông báo cho Tòa án biết thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thông báo thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết; trong quyết định này, Tòa án phải xác định ngày chết của người đó và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật dân sự.

Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc chứng minh xác thực là người đó còn sống. 10.4.3. Thủ tục giải quyết các yêu cầu về hôn nhân và gia đình Tòa án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về hôn nhân gia đình như yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật; yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn… Tuy nhiên , BLTTDS năm 2015 chỉ quy định thủ tục riêng đối với việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản sau khi li hôn. Do thuận tình ly hôn là loại việc đặc biệt liên quan đến mâu thuẫn gia đình, nhưng trên thực tế đời sống hôn nhân của họ vẫn có thể cứu vãn được, bản thân họ cũng chưa thực sự muốn li hôn, hơn nữa hậu quả pháp lý của nó rất nặng nề, đặt biệt ảnh hưởng đến con cái của họ. Do vậy, vấn đề hòa giải đối với thuận tình li hôn là thủ tục bắt buộc. Thủ tục hòa giải đối với yêu cầu thuận tình ly hôn được thực hiện như thủ tục hòa giải vụ án dân sự. Điều 397 BLTTDS năm 2015 quy định 3 trường hợp có thể xảy ra sau khi thẩm phán tiến hành hòa giải đoàn tụ vợ chồng: - Trường hợp sau khi hòa giải, vợ, chồng đoàn tụ thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ - Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 của Bộ luật TTDS năm 2015 khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

sản



Hai bên thực sự tự nguyện ly hôn;



Hai bên đã thỏa thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài

chung, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con; 

Sự thỏa thuận phải bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, con.

- Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Tòa án không phải thông báo về việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc giải quyết vụ án được thực hiện theo thủ tục chung 236

10.4.4. Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án Kết quẩ hòa giải vụ việc dân sự ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải như kết quả hòa giải theo quy định của Luật Hòa giải cơ sở, Luật Đất đai, Bộ luật Lao động… Điều kiện để Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án, theo quy định tại Điều 417 BLTTDS 2015, để Tòa án công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án, cần phải thỏa mãn tất cả các điều kiện sau: - Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. - Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý. - Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận. - Nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba. Thủ tục nhận đơn, xử lí đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án, thủ tục trả lại đơn yêu cầu và thông báo thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án áp dụng theo thủ tục chung giải quyết việc dân sự. Tuy nhiên thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa án có những đặc thù riêng: - Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn này, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Thời hạn mở phiên họp xét đơn yêu cầu là 10 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định mở phiên họp. - Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Thẩm phán được phân công xét đơn có quyền yêu cầu bên tham gia hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến về yêu cầu của người có đơn đề nghị Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành; làm rõ nội dung yêu cầu hoặc bổ sung tài liệu, nếu xét thấy cần thiết; yêu cầu cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền tiến hành hòa giải cung cấp cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc xét đơn yêu cầu của đương sự, nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Tòa án yêu cầu có trách nhiệm trả lời Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án. 237

- Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án khi có đủ các điều kiện quy định. Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giảm bớt việc khởi kiện không cần thiết. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Những nhận định sau đây đúng hay sai? Giải thích và nêu căn cứ pháp lý ? a. Quyết định giải quyết việc dân sự có hiệu lực kể từ ngày Tòa án ra quyết định. b. Khi có yêu cầu giải quyết việc dân sự Tòa án phải mở phiên họp giải quyết việc dân sự. c. Tất cả các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh. d. Mọi quyết định giải quyết việc dân sự có thể bị kháng cáo – kháng nghị phúc thẩm. Câu 2: So sánh điểm giống và khác nhau giữ vụ án dân sự và việc dân sự

238