Bốc dịch p2 [PDF]

  • 0 0 0
  • Gefällt Ihnen dieses papier und der download? Sie können Ihre eigene PDF-Datei in wenigen Minuten kostenlos online veröffentlichen! Anmelden
Datei wird geladen, bitte warten...
Zitiervorschau

Dã Hạc Lão Nhân Luận Đàm 1 – Có người hỏi: Cầu quan nếu được Quan Quỷ trì Thế, cầu danh tất thành. Cầu tài nếu được Thê Tài trì Thế, cầu tài tất được. Nếu như hào Quan Quỷ và hào Thê Tài, hoặc gặp Tuần Không, Nguyệt phá, hoặc bị Tử Tôn phát động để hại Quan, Huynh Đệ phát động để hại Tài. Tuy gặp Quan Quỷ trì Thế, Thê Tài trì Thế cũng chẳng ích gì? – Tôi đáp: Nếu anh biết lý ngũ hành, thần linh đã rõ rồi. Cái quẻ anh gieo được, nếu không trong hung ẩn cát thì cũng là trong cát ẩn hung. Đó là thần thánh dẫn người được biết chỗ thâm sâu, đương nhiên phải xem Tuần Không, Nguyệt phá, Sinh Khắc, Xung Hình. Nay bạn tôi chẳng biết lý ngũ hành, thần cũng đã biết rõ, nếu như cầu danh thì khấn với thần rằng: “Công danh nếu thành, cho tôi Quan Quỷ trì Thế. Nếu không có hy vọng, cho tôi Tử Tôn trì Thế”. Nếu xem phòng ưu hoạn thì khấn thần rằng: “Trước mắt nếu có hoạn nạn, xin cho Quan Quỷ trì Thế. Nếu có thể tránh được họa, xin cho Tử Tôn trì Thế”. Trong quẻ cầu được hiển nhiên dễ thấy, nếu có điều dấu kín tức là thần cũng dối gạt người, sao gọi là thần? Huống chi tôi viết ra phép đơn giản này, chỉ dành cho người không biết lý ngũ hành có thể chiếu theo toàn đồ mà an quẻ để quyết đoán bốn việc lớn. Nếu đã biết một chút về lý ngũ hành, thì chớ nên dùng phép này, cần phải xem kỹ quyển sau của sách này giải thích: Sao là Không mà chẳng Không, Phá mà chẳng Phá. Sao là Mộ mà chẳng Mộ, Tuyệt mà chẳng Tuyệt. Sao là chân phản ngâm, giả phản ngâm. Sao là tiến mà chẳng tiến, thoái mà chẳng thoái. Sao là hồi đầu khắc mà sinh, hồi đầu khắc mà tử. Chỗ nào phải xem Dụng Thần, chỗ nào không xem Dụng Thần. Sao là xem chuyện này mà ứng chuyện khác, sao là xem việc xa mà ứng việc gần. Sao là đắc pháp, bách chiêm bách linh (xủ quẻ trăm phát trăm ứng), sao là chẳng đắc pháp xủ quẻ hoài không nghiệm. Sao là Nguyên thần có lực mà không sinh Dụng thần, sao là Kỵ thần vô lực mà có thể hại Dụng thần. Chỗ nào ở các sách là sai lầm phải bác bỏ, chỗ nào thêm xảo nghiệm ngoài dự đoán. Phải xét kỹ các thứ bí pháp đó mới có thể quyết việc như thần. Tân bình thích: Phép này của Dã Hạc thiếu thỏa đáng, phương pháp của bốc dịch thâm áo, chẳng lấy Kỵ thần trì Thế liền suy ra là hung, Dụng thần trì Thế liền đoán là cát. Tôi thường được nghiệm quẻ dự đoán lên chức, Tử Tôn trì Thế cũng có trường hợp được lên, Quan Quỷ trì Thế cũng có trường hợp không được lên, trong đó có chỗ kỳ diệu, người mới học không thể dễ dàng lĩnh hội. Dùng phép này của Dã Hạc nếu như có ứng nghiệm thì cũng chỉ là ngẫu nhiên, không thể lấy làm khuôn mẫu. Ví như phép này ứng nghiệm thì không cần học sâu hơn nữa ư? Nếu mà bốc dịch bị quỷ thần thao túng, chẳng lẽ quỷ thần

1

chuyên môn bắt nạt người chịu khó học tập nghiên cứu Dịch học, hay là quỷ thần dạy người lười biếng không cần học tập? Chẳng thà lấy một đồng xu tung lên không trung, chờ nó rơi xuống đất rồi xem sấp ngửa, chẳng phải như vậy càng gọn gàng hơn hay sao? Ngay cả an quẻ cũng không cần. Đây là coi bốc dịch như trò đùa. Nếu bạn có tâm học Dịch thì chớ tin vào phép này, bốc dịch chính là môn học đại trí đại thừa, chỉ có chịu khó học tập mới có thể hiểu được những bí ẩn trong đó, từ đó mà nhìn thấu thiên cơ, chỉ ra sai lầm, dạy người xu cát tị hung, cứu người lúc nước sôi lửa bỏng.

Dã Hạc Lão Nhân Luận Đàm 2 – Có người hỏi: Như xem phòng tai nạn, nếu được Tử Tôn trì Thế tất nhiên là chẳng lo; nếu được Quan Quỷ trì Thế tất gặp kinh khủng. Nếu trong quẻ chẳng hiện thì làm sao mà quyết? – Tôi đáp: Một quẻ không thấy thì xem thêm một quẻ nữa, nếu vẫn không thấy thì ngày mai xem lại. Người xưa câu nệ không dám xem lại, cho nên hết cách. Tân bình thích: Người trình độ cao thì không cần xủ quẻ nhiều lần, một quẻ là có thể định đoạt. Bởi vì công lực nông cạn mà nhìn không ra huyền cơ trong quẻ, thì có thể kết hợp với quẻ xủ lại mà phán đoán. Tuyệt đối không thể cho rằng Tử Tôn trì Thế tức là không lo, nếu như hào Thế hưu tù Không Phá thì Tử Tôn trì Thế vẫn có tai họa.

Dã Hạc Lão Nhân Luận Đàm 3 Kinh Dịch có nói: “Tam nhân chiêm, thính nhị nhân chi ngôn” (ba người xem thì theo lời bàn của hai người). Người xưa một việc đã có thể quyết ở ba chỗ, người nay tái cầu có sao đâu? Tôi bình sinh đến nay được chút thâm sâu đều là nhờ vào sức xem quẻ nhiều lần. Việc không gấp thì cách nhật xem lại, việc gấp thì nghỉ một chút rồi lại xem nữa. Chẳng luận sớm muộn, chẳng cần đốt nhang, nửa đêm gà gáy cũng có thể xem quẻ. Miễn là chỉ xem một việc đó thôi chứ không được xem việc khác. Duy có người xem quẻ mà trong lòng nghĩ đến hai ba việc, nếu không có lòng thành nhất niệm thì nhất định chẳng linh nghiệm. Tân bình thích: Việc dự đoán không ở gieo quẻ nhiều mà là ở trình độ của dự trắc sư như thế nào. Nếu quái sư được nhờ vả là bọn tầm thường thì hỏi mười người cũng đều sẽ không ứng nghiệm. Vì vậy “tam nhân chiêm, thính nhị nhân chi ngôn” cũng là sai. Đôi khi chân lý lại nằm ở trong tay của thiểu số. Một lần vào năm 2001, Dương tiên sinh ở thành phố Đại Liên đã gọi điện thoại cho tôi, nhờ tôi phán đoán cát hung 2

cho đứa nhỏ qua quẻ lưu niên của ông ấy. Ngày Bính Ngọ tháng Dần, gieo được quẻ Lôi Trạch Quy Muội biến Càn Vi Thiên.

Tôi đoán đứa nhỏ chỉ là chức năng phổi không tốt, không có hung tai gì lớn, sẽ bình an vượt qua năm này. Nhưng Dương tiên sinh trước sau đã hỏi qua ý kiến của hơn 80 cao thủ lục hào có chút tiếng tăm trong nước, họ đều luận là hung, nói rằng năm đó con gái của ông chắc chắn sẽ chết, sau cùng tôi là người duy nhất dự đoán đúng. Đây chẳng phải là quẻ không ứng nghiệm mà là do mọi người chưa hiểu sâu được chỗ vi diệu trong quẻ. Quẻ này Nhật Nguyệt không sinh hào Tử Tôn, trong quẻ lại có hào Phụ Mẫu lưỡng động tới khắc, người mới học ắt cho là hung, thực ra không phải vậy. Tử Tôn Hợi thủy được Nguyệt hợp là hợp vượng có khí, Nhật Nguyệt vốn không khắc Tử Tôn, Tử Tôn có gốc rễ, trong quẻ tuy có Phụ Mẫu lưỡng động, nhưng có Nguyên thần động mà tạo thành thế liên tục tương sinh, sao mà có đại hung được? Nếu như lấy số lượng ý kiến quái sư để định đoạt cát hung thì chắc chắn là tôi đã thất bại rồi. Đối với người mang trong lòng hai ba việc, họ vẫn có thể xem quẻ. Tôi thường gặp phải những người đến xem muốn đoán nhiều việc cùng một lúc, có một quẻ mà hỏi bệnh cho hai ba người, một quẻ mà hỏi đồng thời vợ chồng công việc sức khỏe, dù vậy nhưng đều có ứng nghiệm. Có điều là một việc xem một quẻ thì tốt hơn, thông tin phản ánh trên quẻ tập trung hơn, chi tiết hơn. Song nếu muốn một quẻ đoán nhiều việc thì cần phải có trình độ dự đoán vững vàng, trước đó phải học tốt một quẻ đoán một việc đã.

3

Dã Hạc Lão Nhân Luận Đàm 4 Giả như xem công danh, hoặc là Quan Quỷ trì Thế, hoặc là Tử Tôn trì Thế, được một trong số đó thì thành bại đã rõ, không cần xem lại nữa. Chớ vì ghét Tử Tôn trì Thế mà phải cầu cho được Quan Quỷ trì Thế mới chịu, như vậy là trái lẽ. Như xem cầu tài, hoặc là Tài trì Thế, hoặc là Huynh Đệ trì Thế, được một trong hai thì dừng, không cần xem lại nữa. Nếu một việc mà cùng chung họa phúc với nhiều người thì chỉ cần một người xem quẻ để quyết, như đi thuyền gặp gió bão, trong nhà phòng hỏa hoạn, ai cũng có thể xem, nếu được quẻ Tử Tôn trì Thế thì tất cả chẳng lo. Lại như xem bệnh tật, người bệnh tự xem, nếu không được quẻ lục xung thì mọi người trong nhà đều có thể xem giùm. Nếu có một người được quẻ lục xung, hoặc bệnh mới đau hoặc bệnh đau lâu, thì bản thân cát hung đã rõ ràng rồi. Phép này được gọi là “Tái cẩm nang”. Lúc còn nhỏ tôi chỉ biết gieo quẻ mà không biết an quẻ, cứ y theo toàn đồ này mà bày quẻ phán đoán. Trải qua một chút loạn ly vẫn được bình an là nhờ vào nỗ lực này vậy. Tôi còn có bí pháp cùng chỉ cho mọi người. Phàm họa phúc liên quan đến bản thân thì chỉ nên bốc quẻ bí mật, trước khi phán đoán không được có người ở bên cạnh. Khi xem quẻ xong thì cát hung tự biết, nhất định không được mang quẻ này đến hỏi thức giả nữa. Nếu như anh có ý hỏi người khác thì thần cũng đã sớm biết, cái quẻ anh gieo được nhất định sẽ thâm áo. Thà rằng giữ kín quẻ này, chờ sau khi sự việc đã xảy ra rồi hẵng hỏi người ta. Tân bình thích: Nói như vậy cũng là làm hại người. Quẻ cát thì không sao, nếu là quẻ hung, người mới học xem không thấu đáo lại không thỉnh giáo ở người tinh thông, nếu như chờ sau này hỏi lại mà bản thân đã chết thảm thì hỏi thế nào? Trước kia giới thiệu xem phòng ngừa tai họa, xem công danh và xem cầu tài chính là hệ thống đề mục, đối với người mới bắt đầu sợ rằng không biết nên xem việc gì, nay tôi trình bày cặn kẽ dưới đây giúp cho người gặp việc có thể dựa vào đó mà xem quẻ.

4

NGUYÊN THẦN TRONG DỰ ĐOÁN LỤC HÀO Nguyên thần tuy sinh Dụng thần, nhưng phải là vượng tướng mới sinh được. Có năm loại Nguyên thần có thể sinh Dụng thần: 1. Nguyên thần được vượng tướng, hoặc gặp Nhật thần, Nguyệt kiến, hoặc được Nhật thần, Nguyệt kiến, hào động sinh vượng, trợ giúp. 2. Nguyên thần động hóa hồi đầu sinh, hoặc động hóa Tiến thần. 3. Nguyên thần gặp Trường Sinh, Đế Vượng tại Nhật thần. 4. Nguyên thần và Kỵ thần đều động. 5. Nguyên thần vượng động, nhưng gặp Tuần Không, hóa Tuần Không. Sách xưa cho rằng Nguyên thần gặp Tuần Không, hóa Tuần Không là vô dụng, như vậy là sai lầm, không hiểu được nguyên lý động thì không bị Không, đợi đến ngày xung Không, thực Không, Nguyên thần lại hữu dụng, nên vẫn là cát, có thể sinh ra Dụng thần. Năm loại Nguyên thần trên đều là Nguyên thần hữu lực, gặp được thì chuyện gì cũng tốt. Có sáu loại Nguyên thần tuy xuất hiện nhưng không thể sinh ra Dụng thần: 1. Nguyên thần hưu tù không phát động, hoặc động mà hưu tù, lại bị khắc thương. 2. Nguyên thần hưu tù, lại gặp Tuần Không, Nguyệt phá. 3. Nguyên thần hưu tù, động mà hóa Thoái thần. 4. Nguyên thần gặp suy, gặp Tuyệt. 5. Nguyên thần nhập Tam Mộ. 6. Nguyên thần hưu tù, động mà hóa Tuyệt, hóa Khắc, hóa Phá, hóa Tán. Những trường hợp trên tuy thấy sinh nhưng lại không sinh, là Nguyên thần vô lực, có cũng như không.

KỊ THẦN TRONG DỰ ĐOÁN LỤC HÀO Có năm loại Kị thần khi phát động sẽ khắc hại Dụng thần:

5

1. Kỵ thần vượng tướng, hoặc được Nhật thần, Nguyệt kiến, hào động sinh vượng, phù trợ, hoặc gặp Nhật thần, Nguyệt kiến. 2. Kỵ thần động hóa hồi đầu sinh, hóa Tiến thần. 3. Kỵ thần vượng động, gặp Tuần Không, hóa Tuần Không. 4. Kỵ thần gặp Trường Sinh, Đế Vượng tại Nhật thần. 5. Kỵ thần và Cừu Thần cùng động. Các loại Kỵ thần như trên đây đều rất dữ, xem việc gì gặp phải đều là đại hung. Có bảy loại Kỵ thần tuy động nhưng không khắc được Dụng thần: 1. Kỵ thần hưu tù không động, động mà hưu tù, hoặc bị Nhật thần, Nguyệt kiến, hào động tương khắc. 2. Kỵ thần tĩnh mà gặp Tuần Không, Nguyệt phá. 3. Kỵ thần nhập Tam Mộ. 4. Kỵ thần suy mà động hóa thành Thoái thần. 5. Kỵ thần suy mà gặp Tuyệt. 6. Kỵ thần động hóa Tuyệt, hóa Khắc, hóa Phá, hóa Tán. 7. Kỵ thần và Nguyên thần cùng động. Những trường hợp trên đều là Kỵ thần vô lực, xem chuyện gì cũng là biến hung thành cát. Trên đây là bàn về trạng thái hữu lực, vô lực của Nguyên thần và Kỵ thần, nhưng Dụng thần cũng phải có khí. Nếu như Dụng thần vô căn (không gốc rễ), thì cho dù Nguyên thần hữu lực cũng khó sinh, cho dù Kỵ thần vô lực chưa chắc đã tốt.

VÍ DỤ VỀ NGUYÊN THẦN, KỊ THẦN Ví dụ tôi được nghiệm một ví dụ. Ngày Tân Hợi tháng Tý, bạn tôi đoán ngày hôm sau muốn đến Bắc Kinh ra sao? Được quẻ Địa Thủy Sư biến Thủy Trạch Tiết.

6

Tôi đoán: Lần này đi Bắc Kinh có thể được tài, rất có lợi. Anh ta nói: Tôi chẳng đi cầu tài, chỉ là đi chơi thôi, ông xem cát hung thế nào? Tôi nói: Chuyến đi này cát lợi, ngày Đinh Tị trở về, có thể kiếm được khá nhiều tiền. Anh ta nói: Tôi dự định trở về vào ngày Bính Thìn, chẳng ăn khớp với dự đoán. Tôi nói: Hãy cứ xem ứng nghiệm ra sao. Sau đó anh ta đi Bắc Kinh đúng là được một vạn nguyên, vốn dự định ngày Bính Thìn quay về, nhưng bởi vì có việc nên lùi lại một hôm. Trở về vào ngày Đinh Tị. Anh ta hỏi tôi: Nhật Nguyệt khắc Tài, Dụng thần vô căn, hào Thế Tài tinh Nguyệt phá, trong quẻ lại có Kỵ thần phát động, mặc dù có Tử Tôn cùng động tương giải, nhưng Tử Tôn Không Vong, lại động mà hóa Phá, phải đoán là bản thân gặp hung, lại xảy ra chuyện phá tài mới đúng chứ? Tôi đáp, quẻ này mặc dù Dụng thần có thể nói là vô căn, nhưng thần triệu cơ ở động, mặc dù Kỵ thần động, nhưng Tử Tôn Dần mộc động mà hợp Kỵ thần, Dần mộc lại sinh hào Thế, huống hồ Kỵ thần động hóa hồi đầu khắc, Tử Tôn vượng mà động ở trong quẻ, xuất hành bình an. Thế lâm Thanh Long, Thanh Long là vui mừng, được Tử Tôn động sinh, tất có hỉ. Hào sơ là chân, động mà hóa Tài, xuất hành tất được tài. Tử Tôn cũng là Nguyên thần của hào Thế, ngày Tị thực Phá, ngày Tị sẽ trở về.

7

VƯƠNG HỔ ỨNG MẠN ĐÀM VỀ NGUYỆT MỘ Tân bình thích Trước nói Tam Mộ là Nhật Mộ, động Mộ và hóa Mộ, Nguyệt Mộ hoàn toàn không được đưa vào Tam Mộ. Ở đây lại nói Nguyệt Mộ là thế nào? Người xưa xem Mộ là hung, trên thực tế đó là một nhận thức sai lầm về Mộ khố. Cát hung chủ yếu xem lực sinh khắc của Nhật Nguyệt hào động đối với Dụng thần ra sao, Mộ khố chỉ phụ họa cho Dụng thần theo góc độ tượng và phân rõ ý nghĩa phán đoán mà thôi. Theo như quẻ đầu tiên, tự xem bệnh, Nguyệt kiến là thổ khắc chế Dụng thần, Nguyên thần nhập Nguyệt Mộ, Nguyên thần là tư duy và thế giới nội tâm của con người, Nguyên thần nhập Mộ, chính là tượng không có tinh thần. Dụng thần không cát, trong quẻ Phụ Mẫu Mão mộc phát động, Mão mộc là Tử địa của Dụng thần, trợ khởi Huynh Đệ Ngọ hỏa, Nhật xung tạo thành ám động, khắc chế Nguyên thần, Nguyên thần lại động mà hóa Phá, vì vậy là hung, tháng Dần Cừu thần được trợ, Nguyên thần bị xung mất, vì vậy mà ứng vào tháng Dần. Ví dụ: Ngày Quý Mùi tháng Tuất, Dịch hữu Mao tiên sinh ở Giang Tô hỏi tôi, cha vợ của một người bị tai nạn xe cộ nhập viện, ông ta đoán là cát, ý kiến tôi thế nào? Quẻ Sơn Trạch Tổn biến Địa Trạch Lâm.

Tôi đáp: Cha vợ người này đã hôn mê bất tỉnh, tháng Hợi tất hung. Kết quả là mất ở tháng Hợi. Quẻ này Nhật Nguyệt không khắc Dụng thần, Dụng thần nhập Mộ ở Nguyệt, chính là tượng hôn mê. Trong quẻ mặc dù được Nguyên thần động mà đến sinh, nhưng Nguyên thần cũng hưu tù vô lực, động hóa hồi đầu khắc, vô lực sinh Dụng, đến tháng Hợi Nguyên thần bị hợp không thể sinh Dụng, Dụng thần lâm Tuyệt, tất hung. Người đời chỉ biết Dụng thần vô khắc, được Nguyên thần động mà đến sinh là cát, mà không biết Nguyên thần bị thương vô lực sinh Dụng cũng là hung. 8

Tuy nhiên, phương pháp của Dã Hạc là một quẻ không rõ thì xem thêm quẻ nữa, hợp các quẻ lại mà quyết, đây cũng là một cách dễ làm. Đáng được đề xướng.

VƯƠNG HỔ ỨNG MẠN ĐÀM VỀ NGUYỆT PHÁ Dã hạc lý luận Ví dụ: Ngày Bính Thân tháng Tị, xem về bệnh tật, được quẻ Cấu:

Thầy thuốc mang quẻ này đến hỏi ta rằng: “Người nọ mắc bệnh rất hiểm nghèo, nên tôi bảo người bệnh gieo quẻ xem uống thuốc có chữa được hay không? Quẻ này Nguyệt kiến Tị hỏa, hào Ứng là Ngọ hỏa sinh hào Thế Mão mộc, chủ về chữa khỏi được, tại sao uống thuốc đều không có tác dụng?” Ta bèn đáp rằng: “Ý tứ của quẻ này rất rõ ràng, chẳng qua là anh xem sai. Xem về thuốc thang cần lấy hào Tử Tôn làm Dụng thần, lấy hào Phụ Mẫu làm Kỵ thần. Quẻ này Hợi thủy là Tử Tôn, gặp Nguyệt phá mà vô căn, được Nhật thần Thân tương sinh cũng không sinh khởi được, hào Thế là Phụ Mẫu lại khắc Tử Tôn. Như vậy gọi là Phụ Mẫu trì Thế, có thuốc thần cũng khó chữa, như vậy uống thuốc làm sao có tác dụng được? Chẳng phải là quẻ không chính xác, mà do anh suy đoán không đúng mà thôi”. Tân bình thích: Luận bàn này của Dã Hạc không đúng, Tử Tôn mặc dù là Nguyệt phá, sao lại Nhật sinh bất khởi? Đây là dạy người ta “hễ là hào Nguyệt phá thì khỏi cần xem Nhật, Nguyệt phá thì vô căn, Nhật sinh cũng suy ra là hung”, cái lý này dễ khiến chúng ta lầm đường lạc lối. Quẻ này ý nghĩ xem thuốc phát sinh từ thầy thuốc, không phải từ nội tâm của người bệnh, mặc dù là người bệnh gieo quẻ, nhưng vẫn coi như thầy thuốc gieo quẻ xem cho người bệnh, lấy Ứng làm Dụng thần. Dã Hạc bảo người ta xem nhiều quẻ chính là mời, người thầy thuốc này 9

bảo người ta gieo quẻ chính là mệnh lệnh, có sự khác biệt về bản chất. Trong quẻ Ứng là người bệnh, mặc dù được Nguyệt kiến trợ giúp, nhưng Nguyên thần không ở trong quẻ, không được Nguyệt sinh, Nhật thần khắc, vô lực sinh Dụng, vì vậy thuốc không công hiệu. Tử Tôn là thuốc, chính là lục thân khắc Dụng thần, uống thuốc làm sao có hiệu nghiệm?

VƯƠNG HỔ ỨNG MẠN ĐÀM VỀ KHẮC XỨ PHÙNG SINH Dã hạc lý luận Bị hào này khắc, lại được hào khác sinh, như vậy là khắc xứ phùng sinh (trong khắc gặp sinh). Dụng thần, Nguyên thần, được khắc ít sinh nhiều là cát lợi. Còn với Kỵ thần, bị khắc ít sinh nhiều là hung, bởi vậy Kỵ thần nên gặp khắc, không nên gặp sinh. Tân bình thích: Lý này của Dã Hạc rất đúng, nếu như sức mạnh của Kỵ thần và Dụng thần tương đương, không thể phân biệt, thì hãy xem sự suy vượng của Nguyên thần và Cừu thần ra sao, Nguyên thần vượng thì đoán là cát, Cừu thần vượng thì đoán là hung. Ví dụ: Vào ngày Bính Thân tháng Thìn, xem cho em trai bị bệnh đậu mùa, đã đến lúc nguy kịch, được Ký Tế biến Cách:

Bèn đoán rằng: Nguyệt kiến tại Thìn thổ, tuy khắc Huynh Đệ Hợi thủy, nhưng nhờ được Nhật thần Thân tương sinh, lại được hào động Thân kim tương sinh, nên tuy nguy kịch, sau vẫn được cứu. Quả nhiên đến giờ Dậu ngày đó, gặp được danh y cứu chữa, đến ngày Kỷ Hợi đã khỏi hoàn toàn. 10

VƯƠNG HỔ ỨNG MẠN ĐÀM VỀ TỰ TỬ Tân bình thích Ví dụ: Năm Tân Tị có Dịch hữu Trương tiên sinh ở Đường Sơn đến thăm và đưa tôi xem một quẻ, ngày Canh Thân tháng Mùi, xem em gái bên ngoài bao giờ trở về? Được quẻ Hỏa Sơn Lữ biến Càn Vi Thiên, bảo tôi phán đoán.

Tôi đoán rằng: Em gái người này sẽ không trở về, sợ rằng đã tự sát ở bên ngoài. Trương tiên sinh đáp: Hôm trước ngày gieo quẻ, tức là ngày Đinh Mùi, cô gái này đã nằm đường ray tự sát. Trong quẻ Dụng thần động hóa hồi đầu sinh, tại sao không trở về được? Làm sao ông biết là tự sát? Tôi trả lời: Trong quẻ này Dụng thần Huynh Đệ Ngọ hỏa Nguyệt hợp là có khí, lại động hồi đầu sinh, nhưng hóa ra Nguyên thần nhập Mộ ở Nguyệt kiến, Nhật thần khắc Tuyệt, vô lực sinh Dụng, trở về là xác chết. Nguyên thần chính là tư duy và thế giới nội tâm của một cá nhân, Dụng thần lâm hào 2, hào 2 là trạch (nơi ở), Nguyên thần không hiện trên quẻ, Mộ ở Nguyệt kiến và hào động Mùi thổ, Tuyệt ở Nhật, không thể sinh hào 2 Dụng thần, chính là bản thân cô gái không muốn về nhà. Dụng thần, Nguyên thần hưu tù, Nguyên thần gặp một trong Tử Mộ Tuyệt, phần lớn là tự sát, Nguyên thần Tử tại Ngọ hỏa, Mộ tại Mùi thổ, Tuyệt tại Thân kim, Tử Mộ Tuyệt đều đầy đủ, vì vậy mới dám đoán là tự sát. Quẻ này rất hay, Nguyên thần Mộ ở hào 5, Dụng thần cũng hợp ở hào 5, hào 5 là đường đi, hóa ra Thân kim, chính là đường ray, tượng nằm đường ray tự sát rất rõ ràng.

11

Dã hạc lý luận Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng, tổng cộng có mười hai trạng thái. Ta xem thấy ứng nghiệm chỉ có Sinh (Trường Sinh), Vượng (Đế Vượng), Mộ, Tuyệt; còn lại đều không ứng nghiệm, nên không cần dùng đến.

Vương Hổ Ứng Mạn Đàm Đây là luận về 12 cung trường sinh, cách gọi chính xác phải là 12 trạng thái sinh tử của ngũ hành. Người xưa đã coi 12 cung trường sinh là căn cứ để phán đoán cát hung, trên thực tế đó là một nhận thức sai lầm. Vai trò của 12 cung trường sinh là dùng để thể hiện “tượng”, việc sử dụng để xem cát hung chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ có một hai phần trăm mà thôi. Thực ra 12 cung trường sinh đều có ứng nghiệm, trong cuốn “Lục hào quái lệ thuyết chân” tôi đã trình bày chi tiết về vấn đề này. Nay tôi dẫn lại ví dụ đã từng đưa ra trước đây, để giúp chúng ta có thể hiểu được chỗ diệu dụng của 12 cung trường sinh. Ví dụ: Ngày Đinh Dậu tháng Mão, một người Nhật Bản nhờ tôi đoán phong thủy nhà ở, được quẻ Trạch Lôi Tùy.

Đoán: Lấy hào Tử Tôn làm Dụng thần, Tử Tôn Thân kim không hiện trên quẻ, phục dưới hào 3 Huynh Đệ Sửu thổ, Dụng thần phục tàng nhập Mộ, chính là tượng nhập viện nằm giường, trong quẻ hào sơ Phụ Mẫu Tị hỏa lâm Chu Tước ám động khắc Dụng thần Thân kim, Chu Tước chủ khẩu thiệt, nhất định là phát sinh tranh chấp với cha mẹ mà mắc bệnh. Nhưng trong quẻ mộc động sinh hỏa, hỏa động sinh thổ, thổ động sinh kim, hào sơ ám động liên tục tương sinh, có thể nói “thành dã Tiêu Hà bại dã Tiêu Hà”[1], hào sơ chủ bàn chân, Phụ Mẫu lại chủ bôn 12

ba, cô gái này nhất định được cha mẹ hết lòng bôn tẩu tương cứu mà được sống. Tử Tôn Thân kim nhập Mộ ở Sửu, tháng Mùi xung khai khố lại được sinh phù sẽ xuất viện, tháng Thân phục tàng Thân kim xuất hiện mà khỏi bệnh. Quả nhiên cô gái này bởi vì có người yêu, cha mẹ phản đối mà uống thuốc độc tự tử, may mà cha mẹ phát hiện kịp thời đưa vào bệnh viện cấp cứu mà giữ được mạng sống, tháng Mùi xuất viện, tháng Thân hồi phục. Trong ví dụ này Sửu thổ vừa là là Mộ khố, vừa sinh hào kim, Mộ khố là tượng nhập viện, sinh kim là được bệnh viện cứu, cả hai đều có tác dụng của riêng nó. Tị hỏa vừa khắc kim vừa Trường Sinh kim, khắc kim là cha mẹ chửi mắng cô ấy, quở trách cô ấy, Trường Sinh là cha mẹ yêu thương cô ấy, cứu cô ấy, tất cả áo diệu của quẻ nằm ở chỗ đó. [1] Thành dã Tiêu Hà bại dã Tiêu Hà: Thành sự tại Tiêu Hà, bại sự cũng tại Tiêu Hà. Trong dự đoán lục hào, những ví dụ tôi được nghiệm cũng là thổ Trường Sinh ở thân, như ví dụ trước, Thìn thổ gặp ngày Dậu là Mộc Dục chính là lấy thổ Trường Sinh tại Thân mà luận, ứng nghiệm ở phòng tắm. Sở dĩ người xưa có hai thuyết, là bởi vì Thân đóng ở Khôn thổ, Dần đóng ở Cấn thổ, nên mới xuất hiện hai thuyết Trường Sinh.

Dã hạc lý luận – Có người hỏi: Như xem phòng tai nạn, nếu được Tử Tôn trì Thế tất nhiên là chẳng lo; nếu được Quan Quỷ trì Thế tất gặp kinh khủng. Nếu trong quẻ chẳng hiện thì làm sao mà quyết? – Tôi đáp: Một quẻ không thấy thì xem thêm một quẻ nữa, nếu vẫn không thấy thì ngày mai xem lại. Người xưa câu nệ không dám xem lại, cho nên hết cách.

Tân bình thích của Vương Hổ Ứng Người trình độ cao thì không cần xủ quẻ nhiều lần, một quẻ là có thể định đoạt. Bởi vì công lực nông cạn mà nhìn không ra huyền cơ trong quẻ, thì có thể kết hợp với quẻ xủ lại mà phán đoán. Tuyệt đối không thể cho rằng Tử Tôn trì Thế tức là không lo, nếu như hào Thế hưu tù Không Phá thì Tử Tôn trì Thế vẫn có tai họa.

13

Dã hạc lý luận Kinh Dịch có nói: “Tam nhân chiêm, thính nhị nhân chi ngôn” (ba người xem thì theo lời bàn của hai người). Người xưa một việc đã có thể quyết ở ba chỗ, người nay tái cầu có sao đâu? Tôi bình sinh đến nay được chút thâm sâu đều là nhờ vào sức xem quẻ nhiều lần. Việc không gấp thì cách nhật xem lại, việc gấp thì nghỉ một chút rồi lại xem nữa. Chẳng luận sớm muộn, chẳng cần đốt nhang, nửa đêm gà gáy cũng có thể xem quẻ. Miễn là chỉ xem một việc đó thôi chứ không được xem việc khác. Duy có người xem quẻ mà trong lòng nghĩ đến hai ba việc, nếu không có lòng thành nhất niệm thì nhất định chẳng linh nghiệm.

Tân bình thích của Vương Hổ Ứng Việc dự đoán không ở gieo quẻ nhiều mà là ở trình độ của dự trắc sư như thế nào. Nếu quái sư được nhờ vả là bọn tầm thường thì hỏi mười người cũng đều sẽ không ứng nghiệm. Vì vậy “tam nhân chiêm, thính nhị nhân chi ngôn” cũng là sai. Đôi khi chân lý lại nằm ở trong tay của thiểu số. Một lần vào năm 2001, Dương tiên sinh ở thành phố Đại Liên đã gọi điện thoại cho tôi, nhờ tôi phán đoán cát hung cho đứa nhỏ qua quẻ lưu niên của ông ấy. Ngày Bính Ngọ tháng Dần, gieo được quẻ Lôi Trạch Quy Muội biến Càn Vi Thiên.

Tôi đoán đứa nhỏ chỉ là chức năng phổi không tốt, không có hung tai gì lớn, sẽ bình an vượt qua năm này. Nhưng Dương tiên sinh trước sau đã hỏi qua ý kiến của hơn 80 cao thủ lục hào có chút tiếng tăm trong nước, họ đều luận là hung, nói rằng năm đó con gái của ông chắc chắn sẽ chết, sau cùng tôi là người duy nhất dự đoán đúng. Đây chẳng phải là quẻ không ứng nghiệm mà là do mọi người chưa hiểu sâu được chỗ vi diệu trong quẻ. Quẻ này Nhật Nguyệt không sinh

14

hào Tử Tôn, trong quẻ lại có hào Phụ Mẫu lưỡng động tới khắc, người mới học ắt cho là hung, thực ra không phải vậy. Tử Tôn Hợi thủy được Nguyệt hợp là hợp vượng có khí, Nhật Nguyệt vốn không khắc Tử Tôn, Tử Tôn có gốc rễ, trong quẻ tuy có Phụ Mẫu lưỡng động, nhưng có Nguyên thần động mà tạo thành thế liên tục tương sinh, sao mà có đại hung được? Nếu như lấy số lượng ý kiến quái sư để định đoạt cát hung thì chắc chắn là tôi đã thất bại rồi. Đối với người mang trong lòng hai ba việc, họ vẫn có thể xem quẻ. Tôi thường gặp phải những người đến xem muốn đoán nhiều việc cùng một lúc, có một quẻ mà hỏi bệnh cho hai ba người, một quẻ mà hỏi đồng thời vợ chồng công việc sức khỏe, dù vậy nhưng đều có ứng nghiệm. Có điều là một việc xem một quẻ thì tốt hơn, thông tin phản ánh trên quẻ tập trung hơn, chi tiết hơn. Song nếu muốn một quẻ đoán nhiều việc thì cần phải có trình độ dự đoán vững vàng, trước đó phải học tốt một quẻ đoán một việc đã. ====================

Ứng kỳ là thời gian xảy ra cát hung của sự việc được dự đoán. Ứng kỳ được chia thành hai loại, một loại là ứng kỳ quá khứ, một loại là ứng kỳ tương lai. Ví dụ như dự đoán hôn nhân, phán đoán thời gian kết hôn trước đây của người xin đoán, hoặc là thời gian yêu đương, nếu dự đoán bệnh tật, phán đoán thời gian bệnh nhân mắc bệnh, thì là ứng kỳ quá khứ. Phán đoán thời gian sẽ xảy ra sự việc ở tương lai, thì là ứng kỳ tương lai. Phán đoán chính xác thời gian xảy ra sự việc sẽ tạo dựng được lòng tin rất lớn từ người xin đoán. Điều này cũng là sự bảo đảm để có thể nắm bắt chính xác theo cát tránh hung. Ứng kỳ là một điểm khó trong dự đoán, nhưng đại bộ phận có quy luật có thể tìm được. Về khoảng cách xa gần của ứng kỳ, phải căn cứ vào sự việc dự đoán khác nhau mà phán đoán linh hoạt, xa thì lấy năm, tháng, gần thì lấy ngày, giờ.

ỨNG KỲ TRONG DỰ ĐOÁN LỤC HÀO Một số quy luật phán đoán ứng kỳ thường gặp như sau.

1. Dụng thần an tĩnh, lấy địa chi năm, tháng, ngày, giờ lâm Dụng thần làm ứng kỳ, hoặc lấy thời gian lâm địa chi xung Dụng thần làm ứng kỳ.

15

2. Dụng thần phát động, lấy địa chi năm, tháng, ngày, giờ lâm Dụng thần làm ứng kỳ, hoặc lấy thời gian địa chi hợp Dụng thần làm ứng kỳ. 3. Dụng thần hoặc Kỵ thần quá vượng, căn cứ vào tình hình cát hung mà phán đoán ứng kỳ không giống nhau. Dụng thần quá vượng, đoán cát thì thường lấy Dụng thần nhập Mộ làm ứng kỳ; đoán hung thì thường lấy thời gian sinh Dụng thần làm ứng kỳ. Khi Kỵ thần vượng thì ngược lại, khi Kỵ thần nhập Mộ hoặc bị khắc là hung, khi được sinh trái lại là cát. 4. Nguyên thần phát động, đôi khi lấy địa chi lâm Nguyên thần làm ứng kỳ, hoặc thời gian có địa chi hợp Nguyên thần làm ứng kỳ. Nguyên thần Nguyệt phá, Không Vong, thì khi Thực Không, Thực Phá, Xung Không, Hợp Phá là ứng kỳ. 5. Kỵ thần phát động, lấy địa chi lâm Kỵ thần làm ứng kỳ, hoặc thời gian có địa chi hợp Kỵ thần làm ứng kỳ. 6. Khi Dụng thần hưu tù, gặp Tuyệt, tùy vào cát hung mà ứng kỳ không giống nhau. Đoán cát, lấy lúc Dụng thần Trường Sinh làm ứng kỳ, hoặc lấy địa chi lâm Nguyên thần làm ứng kỳ. Đoán hung, khi Dụng thần nhập Mộ, gặp xung, bị khắc là ứng kỳ; cũng có lúc Dụng thần suy cực, gặp Trường Sinh là hung. 7. Dụng thần nhập Mộ, hoặc lấy lúc xung Mộ làm ứng kỳ, hoặc lấy lúc xung Dụng thần làm ứng kỳ. 8. Dụng thần gặp hợp, hoặc lấy lúc xung Dụng thần làm ứng kỳ, hoặc lấy lúc xung địa chi hợp Dụng thần làm ứng kỳ. 9. Nguyên thần động mà gặp hợp, lấy lúc xung Nguyên thần hoặc xung địa chi hợp Nguyên thần làm ứng kỳ. Kỵ thần gặp hợp, lấy địa chi xung Kỵ thần hoặc xung địa chi hợp Kỵ thần làm ứng kỳ. 10. Dụng thần Nguyệt phá, lấy lúc hợp Dụng thần làm ứng kỳ, hoặc lấy địa chi năm, tháng, ngày, giờ lâm Dụng thần làm ứng kỳ, hoặc lấy tháng sau của lúc dự đoán làm ứng kỳ.

16

11. Dụng thần, Kỵ thần, Nguyên thần Không Vong, lấy địa chi năm, tháng, ngày, giờ lâm những hào này làm ứng kỳ, hoặc lấy địa chi xung Không Vong làm ứng kỳ. 12. Dụng thần bị Kỵ thần khắc, nhưng khi trong quẻ biểu thị cát, lấy lúc Kỵ thần bị khắc, hoặc lúc xung mất Kỵ thần làm ứng kỳ. 13. Dụng thần, Kỵ thần phát động hóa Tiến thần, lấy địa chi lâm hào động hóa Tiến thần làm ứng kỳ, hoặc lấy thời gian lâm địa chi hợp hóa Tiến thần làm ứng kỳ. Nếu có một địa chi tương hợp, thì lấy xung khai làm ứng kỳ; Không Vong, thì lấy Thực Không, xung Không làm ứng kỳ; Nguyệt phá, thì lấy Hợp Phá, Thực Phá làm ứng kỳ. 14. Dụng thần, Kỵ thần hóa thoái, thì lấy Thoái thần tức địa chi lâm hào biến làm ứng kỳ, hoặc lấy địa chi xung hào biến làm ứng kỳ, hoặc lấy địa chi hợp hào động làm ứng kỳ. Gặp Không, gặp phá, phỏng theo quy tắc ứng kỳ của Tiến thần. 15. Dụng thần phục tàng, lấy địa chi lâm Dụng thần làm ứng kỳ, hoặc lấy thời gian xung Phục thần làm ứng kỳ, hoặc lấy thời gian xung Phi thần làm ứng kỳ. 16. Khi trong quẻ chỉ có một hào động, gọi là độc phát, một hào độc phát, đôi khi lấy địa chi lâm hào độc phát làm ứng kỳ, hoặc lấy thời gian hợp hào độc phát làm ứng kỳ. 17. Khi trong quẻ có năm hào động, chỉ có một hào tĩnh, gọi là độc tĩnh. Đôi khi lấy hào độc tĩnh làm ứng kỳ. 18. Khi Kỵ thần trì Thế phát động hóa ra lục thân giống Dụng thần, thường lấy hào biến của hào Thế làm ứng kỳ. 19. Khi Dụng thần phát động hóa Không, hóa Phá, thường lấy hào biến làm ứng kỳ. Trên đây chỉ là một số quy tắc ứng kỳ đơn giản thường gặp mà thôi, ứng kỳ đôi khi còn tùy vào nội dung dự đoán khác nhau mà phương pháp trích xuất ứng kỳ cũng có chỗ khác nhau. Chẳng hạn như dự đoán hôn nhân, đôi khi lấy hào Phụ Mẫu để phán đoán ứng kỳ; khi dự đoán về sinh nở, đôi khi lấy đất Thai, Dưỡng của Tử Tôn làm ứng kỳ; dự đoán hành nhân, Dụng thần tĩnh mà hợp Nhật, thì hôm đó về, Dụng thần nhập Mộ ở Nhật, cũng ứng hôm đó về. Tóm lại cần tự mình tích lũy trong thời gian dài, suy xét cẩn thận, thì mới có thể nắm bắt ứng kỳ chính xác. 17

DỰ ĐOÁN NHÂN DUYÊN – CÁCH CHỌN DỤNG THẦN Lục hào dự đoán nhân duyên căn cứ vào nam nữ khác nhau mà Dụng thần cũng khác nhau. Nam dự đoán hôn nhân lấy Thê Tài làm Dụng thần. Nữ dự đoán hôn nhân thì lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Hào Ứng đại diện đối phương và gia đình đối phương. Bất kể là chính mình đến xem, người nhà, bạn bè, đại diện nhà trai đến xem thì lấy Thê Tài làm Dụng thần, đại diện nhà gái đến xem thì lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Dự đoán hôn nhân của cha mẹ thì lấy Phụ Mẫu làm Dụng thần. Dự đoán ngoại tình cũng căn cứ nam nữ khác nhau, nam lấy Thê Tài làm Dụng thần, nữ lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Nếu như một cá nhân nào đó dự đoán thì lấy hào Thế đại diện người này, mà không xem Thê Tài, Quan Quỷ. Dự đoán giấy kết hôn thì lấy Phụ Mẫu làm Dụng thần. Dự đoán vai trò của người làm mối thì lấy hào Ứng làm Dụng thần. Dự đoán tình hình và thái độ của gia đình đối phương thì lấy hào Ứng làm Dụng thần. Nói chung Dụng thần nên vượng tướng, nên được Nhật Nguyệt hào động sinh phù, nên hóa hồi đầu sinh. Kỵ thần phát động, cần xem sức lực Kỵ thần như thế nào, hưu tù chỉ là tạm thời bất lợi mà thôi, chờ sau khi Kỵ thần bị chế phục thì sẽ xuất hiện chuyển biến tốt. Tuy nhiên Dụng thần cũng sợ quá vượng, quá vượng thì vật cực tất phản, cũng là thông tin hôn nhân không tốt. Cần lưu ý chỗ này trong thực hành dự đoán nhân duyên.

VÍ DỤ VỀ CÁCH CHỌN DỤNG THẦN TRONG DỰ ĐOÁN NHÂN DUYÊN Ngày Tân Sửu tháng Tị năm Ất Dậu, dự đoán hôn sự con gái, được quẻ Địa Sơn Khiêm biến Địa Thủy Sư.

18

Lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Quan Quỷ Ngọ hỏa được Nguyệt phù là vượng tướng, hôn sự có thể thành. Thê Tài Mão mộc phục dưới Dụng thần, cho biết đối phương có bạn gái hoặc đã kết hôn. Dụng thần động hóa Phụ Mẫu, Phụ Mẫu là giấy kết hôn, biểu thị người kia đã kết hôn, nhưng hóa ra Phụ Mẫu Không Vong là sắp ly hôn. Hào Thế Tử Tôn Hợi thủy đại diện con gái. Bị Nguyệt Quan Quỷ Tị hỏa xung phá, Quan Quỷ là người nam, xung phá Tử Tôn là con gái đã mất trinh. Tị hỏa xung phá, Nguyệt phá có thể ứng xung phá, vì vậy phán đoán là năm Tân Tị mất trinh. Phản hồi: Quả nhiên năm Tân Tị con gái mất trinh. Hiện tại bạn trai của con gái đang có vợ. Ba ngày sau họ ly hôn.

Dự đoán thai nghén gồm có thai hay không và sinh nở thế nào là 1 trong những trọng tâm của Dự trắc sư khi tiến hành dự đoán. Con cái là kết tinh của tình yêu, là sự tiếp nối thế hệ từ quá khứ đến tương lai, là sợi dây gắn kết gia đình. Cổ nhân có câu “Trong ba điều bất hiếu, không có con cái nối dõi, thờ tự là tội bất hiếu lớn nhất !”. Trong nhịp sống hiện đại ngày nay, do ảnh hưởng của môi trường cũng như xã hội mà tỉ lệ vô sinh chưa bao giờ lên cao như vậy thì con cái chính là 1 trong những chủ đề nóng trên các diễn đàn Kinh Dịch. Bài viết này được trích trong cuốn sách Tế Thuyết Lục Hào Dự Trắc Học.

19

CÁCH CHỌN DỤNG THẦN TRONG DỰ ĐOÁN THAI NGHÉN Xem bao giờ có con, hoặc có thể có con hay không thì lấy hào Tử Tôn làm Dụng thần. Tử Tôn vượng tướng, được sinh phù là sẽ có con ; Tử Tôn hưu tù, Không Vong, Nguyệt Phá, động mà hóa hung là cả đời khó có con cái. Đang hoài nghi là mang thai, xem có thai hay không thì lấy hào Tử Tôn làm Dụng thần đồng thời xem hào thai. Cách tính hào thai : Lấy 12 cung trường sinh đến tra theo ngũ hành địa chi hào Tử tôn, đếm đến thai địa chính là ngũ hành địa chi của thai. Xem mẹ mang thai như thế nào thì lấy Huynh đệ làm Dụng thần.

MỘT SỐ PHÁN ĐOÁN CƠ BẢN TRONG DỰ ĐOÁN THAI NGHÉN Dưới đây là 1 số phán đoán cơ bản, tuy nhiên khi vận dụng không được cứng nhắc, máy móc, tất cả đều phải phụ thuộc vào hỷ, kỵ của Dụng thần. Tử tôn cùng hào thai vượng tướng là dấu hiệu có thai; nếu hưu tù, Không Vong, Nguyệt Phá là tượng không có thai. Nếu hào Thế là Nguyên thần của hào thai hưu tù, Không, Phá chính là tượng cả đời không có con. Tử tôn tuy vượng tướng nhưng hào thai hưu tù, Không Vong, Nguyệt Phá, động mà hóa hồi đầu khắc, hóa Tử, hóa Tuyệt, hóa Quỷ hoặc hình xung khắc hại thì là có thai nhưng cũng sinh non hoặc sảy thai. Nếu trong quẻ có hào động hóa thành hào thai thì tuy trước mắt chưa có thai, nhưng sau tất sẽ có thai. Hào này sẽ là trọng điểm của dự đoán ứng kỳ. Đặc biệt nếu là độc phát. Tử tôn, thai hào nên yên tĩnh không nên phát động, động tất có ý nghĩa. Tử tôn động lâm Bạch Hổ chính là tượng sắp sinh. Phụ mẫu là kị thần không nên phát động, động tất Tử Tôn sẽ bị khắc thương, hẳn là có vấn đề gì đó gây bất lợi cho thai. Nếu Huynh Đệ đồng thời phát động thì sẽ dẫn hóa Kỵ thần thành liên tục tương sinh.

20

Hào 2 là vị trí mang thai, đồng thời cũng là hào vị tử cung. Tử tôn lâm Thanh Long hoặc Câu Trần vượng mà ở hào 2 là chắc chắn có thai. Tử tôn không nên động mà hóa Quỷ, hóa hồi đầu khắc là dấu hiệu thai nhi có bệnh hoặc sẽ ngừng tim thai. Tử tôn không nên gặp hợp, quẻ lục hợp là dấu hiệu khó sinh, ngược lại gặp xung là dấu hiệu vượt cạn thuận lợi. Hai hào Tử tôn đều động, hai hào thai hiện là dấu hiệu sinh đôi.

PHÁN ĐOÁN GIỚI TÍNH THAI NHI Tử tôn là hào dương, vượng tướng là nam, ngược lại là nữ. Tại quái cung dương là nam, quái cung âm là nữ. Tử tôn vượng tướng; dương hào động là nữ, âm hào động là nam. Tử tôn hưu tù lấy Tử tôn ở hào âm dương cùng quái cung để phán đoán. 1 hào độc phát : nhìn hào động; 2 hào động : xem hào ở trên; 3 hào động : xem hào ở giữa; nhiều hào động : xem hào tĩnh. Nếu tượng quẻ không rõ ràng có thể gieo lại xem sau.

ỨNG KÌ TRONG TRONG DỰ ĐOÁN THAI NGHÉN Dựa vào hỷ kỵ của hào Tử Tôn đến phán đoán, không nên cứng nhắc. Khi phán đoán cần có năng lực dự đoán ở mức nhất định. Tổng luận về ứng kỳ của Vương Hổ Ứng lão sư mời xem tại đây. Phục tàng ứng xuất hiện hoặc xung phi thần; hợp chờ xung; nhập mộ ứng xung mộ; hưu tù ứng trường sinh; nguyệt phá ứng thực phá, hợp phá hoặc sang tháng; tuần không ứng xung không, thực không.

VÍ DỤ TRONG DỰ ĐOÁN THAI NGHÉN Ví dụ : Ngày Ất Tỵ, Tháng Mùi, Năm Ất Hợi, nam hổi khi nào có con được quẻ Trạch Phong Đại Quá biến Lôi Sơn Tiểu Quá.

21

Lấy Tử Tôn Ngọ hỏa làm Dụng thần. Dụng thần Tử Tôn phục dưới Phi thần Phụ Mẫu Hợi thủy, Phi thần đến khắc Phục thần là không cát. Nhưng Phi thần tuyệt ở Nhật, Nhật xung, Nguyệt khắc. Nhật xung Phi thần tương trợ Dụng thần là cát, là tượng có thai. Phụ mẫu Hợi thủy được Quan quỷ Dậu kim phát động tới sinh phù, năm 2000 là năm Thìn, hợp trú Quan Quỷ Dậu kim lại khiến cho Phụ mẫu Hợi thủy nhập mộ, nhập mộ khó khắc Tử tôn Ngọ hỏa. Phán đoán năm này sẽ mang thai. Quả nhiên năm 2000 đã có thai, là con trai. ============

Mặc dù hào vị trong dự đoán nhân duyên không có ứng dụng rộng rãi như dự đoán bệnh tật và dự đoán phong thủy, nhưng vẫn là một trong những thông tin tham khảo cần thiết để đưa ra được những dự đoán khá chi tiết và chính xác.

CÁCH DÙNG HÀO VỊ TRONG DỰ ĐOÁN NHÂN DUYÊN Hào sơ: là hàng xóm, đời sau, vừa bắt đầu, bước đầu, lúc đầu, đất đai, cá nhân, thường dân, cơ sở, bàn chân, nông thôn,… Hào 2: là vợ chồng, nơi cư trú, nhà, trong nhà, quê nhà, trong phòng làm việc, chân, bụng,… Hào 3: là kế toán, cửa, giường, xuất khẩu, đồng hương,… Hào 4: là đồng hương, nơi khác, bên ngoài, ngoại ô,…

22

Hào 5: là con đường, lãnh đạo, gia trưởng, cán bộ, trọng yếu, thủ đô, thành phố lớn, yêu thích,… Hào 6: là nơi khác, ngoại quốc, nơi xa, kết thúc, rút lui,… Ví dụ : Ngày Ất Mùi tháng Sửu năm Canh Thìn, nam (29 tuổi) đoán khi nào có hôn nhân, được quẻ Thiên Địa Bĩ.

Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Thê Tài Mão mộc không được Nhật Nguyệt trợ giúp là hưu tù, lại nhập Mộ tại Nhật biểu thị lập gia đình muộn. Sàng Trướng Tý thủy bị Nhật Nguyệt khắc thương là hưu tù, lại không hiện, thuyết minh hiện nay không có kết hôn. Phụ Mẫu Mùi thổ lâm Nhật, lấy hào Phụ Mẫu phán đoán ứng kỳ kết hôn. Phụ Mẫu Mùi thổ Nguyệt phá, vì vậy cần hợp phá thực phá. Năm Nhâm Ngọ hợp phá, năm Quý Mùi thực phá, tất nhiên sẽ kết hôn ở hai năm này. Thê Tài Mão mộc tại hào 3 lâm Câu Trần, hào 3 là cửa ngõ, biểu thị bộ phận giữ cửa, Câu Trần là văn phòng, lâm mộc là ngũ hành sinh hỏa, hỏa chủ văn tự, văn thư, vì vậy phán đoán là kế toán. Lại Phụ Mẫu Mùi thổ là tài khố, cũng biểu thị người kết hôn có thể là người quản lý tiền bạc. Dụng thần hợp hào Ứng Phụ Mẫu Tuất thổ, Ứng tại hào 6, hào 6 là vùng khác, biểu thị cha mẹ phía nữ ở vùng khác, nữ là người nơi khác. Nhưng Thê Tài nhập Mộ tại hào sơ, hào sơ là bản địa, Phụ Mẫu là hộ khẩu, văn thư, biểu thị là hộ khẩu nơi đó. Phản hồi: Năm 2002 Nhâm Ngọ kết hôn với một cô gái làm tại ngân hàng. 23

Ý NGHĨA CỦA LỤC THÂN TRONG DỰ ĐOÁN NHÂN DUYÊN Lục thân trong dự đoán lục hào phân biệt ý nghĩa cụ thể, là cơ sở quan trọng để trích xuất thông tin. Phụ Mẫu: bề trên, cha mẹ, giấy chứng nhận kết hôn, tin tức, nhà cửa, người làm mối,… Quan Quỷ: đàn ông, công việc, chính phủ, bệnh tật, bạn trai, chồng,… Thê Tài: tiền tài, phụ nữ, bạn gái, vợ,… Tử Tôn: trẻ con, con cái, niềm vui, thông tin nữ gặp hôn nhân bất lợi,… Huynh Đệ: trở lực, thông tin nam gặp hôn nhân bất lợi, người thứ ba, bạn bè, anh em,… Ví dụ : Ngày Bính Thìn tháng Sửu, nữ chọn ngày kết hôn cho em trai, được quẻ Khảm Vi Thủy biến Địa Trạch Lâm.

Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Khảm Vi Thủy là quẻ thuần, Khảm là trung nam, thuyết minh là cô chọn ngày kết hôn cho em trai thứ hai. Huynh Đệ trì Thế, bản thân rất quan tâm em trai, Không Vong biểu thị lo lắng. Thê Tài Ngọ hỏa mặc dù không được Nhật Nguyệt trợ giúp, nhưng cũng không bị khắc, hào sơ Tử Tôn Dần mộc phát động đến sinh, là cát. Thê Tài nhập Mộ ở hào động Tuất thổ, Tuất thổ là Quan Quỷ, Quan Quỷ là nam, biểu thị cô gái này đã từng sống chung với người đàn ông khác, nhưng bị Nhật xung khai Mộ khố, chủ ly hôn, là kết hôn lần hai.

24

Hào sơ Dần mộc động hóa Thê Tài, hào sơ là cái miệng nhỏ, Tử Tôn lại đại diện con cái, chứng tỏ phía nữ mang theo con. Hào Thế Không Vong, vì vậy chọn ngày Ngọ xung hào Thế, Thê Tài được vượng là tốt. Phản hồi: Dự đoán hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế.

Ý NGHĨA CỦA LỤC THẦN TRONG DỰ ĐOÁN NHÂN DUYÊN Lục thần trong dự đoán hôn nhân chủ yếu là biểu thị nguyên nhân tính chất của sự vật. Dùng nhiều ở tính cách, tướng mạo, mức độ quan hệ, thái độ,… Thanh Long: chủ bắt đầu, khuôn mặt đẹp, xinh đẹp, hoá trang, cao quý, tao nhã, tửu sắc, hạnh phúc, mới, có thai, làm dáng, tiệc rượu, quý trọng, giàu có, vui sướng, hào hoa,… Chu Tước: chủ nói chuyện, giỏi nói, khuôn mặt tươi cười, lời lẽ, đàm luận, cãi nhau, tranh chấp, thảo luận, cười híp mắt, kiện cáo, tố tụng, tin tức, tỏ thái độ, văn thư,… Câu Trần: chủ thành thật, lười biếng, an phận, thật thà phúc hậu, vụng về, thận trọng, nhô lên, phồng lên, liên quan, nhà, tu tạo, béo phì, chậm chạp, không nhạy bén, ngu dốt,… Đằng Xà: chủ xảo quyệt, sợ hãi, lo lắng, nhát gan, bất an, nói nhiều, quái gở, cô độc, hiếm thấy, tham tài, hẹp hòi, khuyết thiếu, mảnh mai, quanh co,… Bạch Hổ: chủ nóng nảy, bận rộn, xấu tính hay cáu, tức giận, nóng vội, nhanh chóng, lưu sản, đánh nhau, tổn thương, đánh đập, mạnh mẽ, nghiêm ngặt, nghiêm khắc, uy vũ, uy mãnh,… Huyền Vũ: chủ gợi cảm, dâm loạn, ám muội, hơi đen, thầm kín, bí mật, lén lút, vụng trộm, trộm cắp, đánh bạc, đầu cơ, lừa gạt, dối trá,… Ví dụ : Ngày Giáp Ngọ tháng Hợi, nam đoán tình trạng hiện nay của nữ, được quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu biến Sơn Thiên Đại Súc.

25

Đoán tình trạng của một người nào đó, lấy hào Thế là người được dự đoán. Hào Thế là thổ, thổ chủ thận trọng, lâm Câu Trần lại chủ thành thật, thận trọng. Nhưng hào Thế Thìn thổ, ngược lại, vì vậy phán đoán người phụ nữ này bên ngoài thận trọng, nhưng trên thực tế tính tình hấp tấp (nóng nảy), dễ kích động. Quẻ tại cung Càn chủ cao ngạo, hào Thế Thìn thổ là Mộ khố Tử Tôn, Tử Tôn là nghệ thuật, lại Đằng Xà lâm hào độc phát hợp hào Thế, Đằng Xà chủ nghệ thuật, vì vậy phán đoán cô ấy có khiếu về nghệ thuật. Quan Quỷ Tị hỏa lâm hào Ứng Nguyệt phá, hào độc phát lại là Tử địa Quan Quỷ, chồng tuy có như không. Thế Ứng đều Không, vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau. Hào Thế Thìn thổ và hào Ứng Tị hỏa cùng đóng tại cung Tốn, vợ chồng là đồng nghiệp hoặc bạn học. Hào Ứng lâm Huyền Vũ, chủ chồng có hành vi lừa dối, hoặc hành vi trộm cướp. Hào độc phát lâm Đằng Xà hóa ra Mộ khố Quan Quỷ, độc phát có thể biểu thị tính chất, Đằng Xà là dây thừng, Mộ khố chủ đóng kín, có tượng nhà tù. Phản hồi: Phán đoán quả nhiên chính xác, cô này tốt nghiệp chuyên ngành nghệ thuật, vợ chồng là bạn học, chồng đã từng ngồi tù.

THỦ TƯỢNG LỤC THÂN HỖ HÓA TRONG DỰ ĐOÁN NHÂN DUYÊN Trong dự đoán lục hào, hào động là khởi đầu của sự vật, hào biến là kết quả của sự vật. Lục thân biến hóa lẫn nhau phân biệt cát hung có hồi đầu sinh, hồi đầu khắc, hóa Tuyệt, hóa Mộ, hóa Không, hóa Phá, hóa

26

Hợp, hóa Xung,… đều là thông tin của hào vị biến hóa thể hiện ra. Ngoài ra lục thân của hào động và hào biến cũng có thể biểu đạt ý nghĩa và thông tin nhất định, cũng có thể phụ họa Dụng thần và lấy tượng phán đoán. Phụ Mẫu •

Phụ Mẫu hóa Phụ Mẫu: cần xem tiến thoái, hóa Tiến thần hôn ước có thể thành, hóa Thoái thần bội ước.



Phụ Mẫu hóa Quan Quỷ: cha mẹ, bề trên giới thiệu bạn trai.



Phụ Mẫu hóa Thê Tài: cha mẹ, bề trên giới thiệu bạn gái, hoặc là bội ước.



Phụ Mẫu hóa Huynh Đệ: nam đoán hôn nhân, hủy bỏ hôn ước.



Phụ Mẫu hóa Tử Tôn: nữ đoán hôn nhân, hủy bỏ hôn ước.

Quan Quỷ •

Quan Quỷ hóa Quan Quỷ: cần xem tiến thoái, nữ đoán hôn nhân, Quan Quỷ hóa Tiến thần, chưa kết hôn, nam theo đuổi, tình cảm dần dần thắm thiết; người đã kết hôn, tình cảm phai nhạt dần.



Quan Quỷ hóa Thoái thần: nữ đoán hôn nhân, người chưa kết hôn, hủy hôn, tình cảm phai nhạt dần. Người ly hôn, gương vỡ lại lành, lại đoàn tụ.



Quan Quỷ hóa Phụ Mẫu: nữ đoán hôn nhân, nam có cha mẹ chồng. Nam đoán hôn nhân, người trung gian chủ hôn.



Quan Quỷ hóa Thê Tài: nữ đoán hôn nhân, nam có ngoại tình, nam thay lòng đổi dạ. Nam đoán hôn nhân, có người ức hiếp vợ.



Quan Quỷ hóa Huynh Đệ: trở ngại trùng điệp.



Quan Quỷ hóa Tử Tôn: nam có con, hoặc nữ đoán hôn nhân bất lợi.

Thê Tài •

Thê Tài hóa Thê Tài: nam đoán hôn nhân, Thê Tài hóa Tiến thần, bạn gái theo đuổi, tình cảm thắm thiết.

27



Thê Tài hóa Thoái thần: tình cảm trở nên lạnh nhạt, rời xa mình.



Thê Tài hóa Quan Quỷ: nam đoán hôn nhân, vợ nảy sinh ngoại tình, hoặc vợ bị ốm, sức khỏe kém.



Thê Tài hóa Huynh Đệ: nam đoán hôn nhân, hôn nhân bất lợi.



Thê Tài hóa Tử Tôn: bạn gái tin cậy, tình cảm nồng thắm, nữ mang con đến.



Thê Tài hóa Phụ Mẫu: từng có hôn nhân, hoặc có thể chịu được cực khổ vất vả.

Tử Tôn •

Tử Tôn hóa Tử Tôn: hóa Tiến thần, nữ đoán hôn nhân bất lợi. Hóa Thoái thần, giảm thiểu trở ngại. Nam đoán,tình cảm bạn gái trở nên lạnh nhạt.



Tử Tôn hóa Phụ Mẫu: lưu sản.



Tử Tôn hóa Quan Quỷ: bạn trai có con. Người muốn ly hôn tái giá.



Tử Tôn hóa Huynh Đệ: nữ đoán hôn nhân bất lợi. Nam đoán hôn nhân lâu bền.

Huynh Đệ •

Huynh Đệ hóa Huynh Đệ: trở ngại lớn, có người thứ ba.



Huynh Đệ hóa Phụ Mẫu: cha mẹ, bề trên phản đối.



Huynh Đệ hóa Quan Quỷ: bạn bè giới thiệu bạn trai.



Huynh Đệ hóa Thê Tài: bạn bè giới thiệu bạn gái.



Huynh Đệ hóa Tử Tôn: nam đoán, bởi vì trẻ con gia đình bất hòa.

Trên đây chỉ trình bày ngắn gọn, nhằm mở ra suy nghĩ. Trong dự đoán còn phải căn cứ sinh khắc xung hợp, Không Vong, Nguyệt phá, lục thần,… phán đoán linh hoạt. Ví dụ : Ngày Đinh Sửu tháng Dậu năm Canh Thìn, nữ đoán con trai khi nào kết hôn, được quẻ Địa Lôi Phục biến Sơn Hỏa Bí.

28

Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Trong quẻ Thê Tài lưỡng hiện, lấy hào nhật hợp Thê Tài Tý thủy làm Dụng thần. Hào 3 Huynh Đệ Thìn thổ lâm Thái tuế phát động hóa ra Thê Tài Hợi thủy, Thê Tài là con dâu, vì vậy năm nay con trai nhất định có bạn gái. Hiện tại đã là tháng Dậu, hào động ứng với năm, hào biến thì ứng với tháng, vì vậy tháng Hợi xuất hiện. Nguyên thần Tử Tôn Dậu kim Không Vong, lại bị hợp trú không thể sinh Thê Tài, Phụ Mẫu phục tàng đại diện giấy chứng nhận kết hôn, sang năm phục tàng gặp xuất hiện, tháng Mão xung thực Tử Tôn Dậu kim, lại là xung khai, tháng Mão năm sau có thể kết hôn. Tử Tôn Không Vong động hóa Quan Quỷ, lại bị Thìn thổ Đằng Xà hợp trú, hợp trú biểu mất đi tự do, Đằng Xà chủ dây thừng, Tử Tôn đại diện người con, hóa quan là gặp quan, tổ hợp này biểu thị con trai cô từng ngồi tù. Phản hồi: Quả nhiên con trai của cô từng ngồi tù vì trộm cướp, vì vậy hôn nhân trì trệ không thành. Sau ở tháng Hợi quen một cô gái, tháng Sửu ở chung, tháng Mão năm sau cử hành hôn lễ.

Ý NGHĨA CỦA DỤNG THẦN LƯỠNG HIỆN TRONG DỰ ĐOÁN NHÂN DUYÊN Trong dự đoán lục hào có lúc sẽ gặp phải tình huống Dụng thần lưỡng hiện, có thể nhiều hơn. Thông thường chọn một cái làm Dụng thần để tiến hành phán đoán sự việc, thế nhưng dự đoán hôn nhân khá là đặc biệt, lưỡng hiện thường ám chỉ một ý nghĩa tinh tế hơn. Ứng với hôn nhân hai lần, tình yêu tay ba, ngoại tình, thông tin quá khứ và tương lai, tổng hợp tình trạng của người kia, cũng có khi liên quan đến ứng kỳ. Vì

29

vậy không thể đơn thuần bỏ qua hào này lấy hào kia tiến hành phán đoán. Ví dụ : Ngày Giáp Dần tháng Mùi năm Giáp Thân, nữ đoán ngoại tình, được quẻ Thủy Phong Tỉnh biến Trạch Phong Đại Quá.

Lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Trong quẻ Quan Quỷ lưỡng hiện, thông thường lấy một hào trong đó làm Dụng thần. Nhưng có lúc căn cứ vào tình huống dự đoán khác nhau, hai Dụng thần mỗi cái có một công dụng. Hào động Quan Quỷ Thân kim là người đàn ông ngoài hôn nhân, hào tĩnh Quan Quỷ Dậu kim là chồng cô ta. Hương Khuê Tý thủy Hợi thủy lưỡng hiện, hai người sống chung với nhau. Hợi thủy lâm Ứng, Ứng là người khác, cùng Nhật hợp, Nhật biểu thị hiện tại, thuyết minh bây giờ cô ta càng sốt sắng với người đàn ông kia. Dụng thần Quan Quỷ Thân kim lâm Thái Tuế phát động, biểu thị mới quen người đàn ông này trong năm. Dụng thần lâm Dịch Mã động hóa Phụ Mẫu, Dịch Mã là xe, hóa ra Phụ Mẫu cũng chủ xe, lâm Đằng Xà chủ kỹ thuật, đối phương biết lái xe. Hào Thế sinh Dụng thần, bản thân rất thích người này. Hào Thế lâm Thê Tài tại hào 5, hào 5 là ông chủ, Thê Tài là kinh doanh, thuyết minh bản thân là chủ hộ kinh doanh cá thể. Quan Quỷ Dậu kim lâm Câu Trần, Câu Trần là thành thật, chồng là người hiền lành, thật thà. Dụng thần Quan Quỷ Thân kim bị Nhật Huynh Đệ Dần mộc xung, lại hợp nhập Hương Khuê Hợi thủy, Huynh Đệ là người tranh đoạt, người cạnh tranh với mình, hợp nhập Hương Khuê của mình, chính là có nữ nhân khác đến tranh giành người tình ngoài hôn nhân. Xung cũng biểu thị đến tranh đoạt. Dụng thần bị xung lại biểu thị bị người bắt gặp. 30

Dụng thần sinh hào Ứng, đây là vô tình, biểu thị người tình ngoài hôn nhân hiện tại đối xử tốt với người khác, lạnh nhạt với cô. Hào Thế lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ chủ tức giận, tâm trạng không tốt, rất tức giận. Phản hồi: Quả nhiên là như vậy. Người tình ngoài hôn nhân là tài xế của một cơ quan chính phủ, cô là chủ một cửa hàng quần áo. Thường cho tình nhân xài tiền, rất thích hắn. Chồng rất hiền, không quản được chuyện bên ngoài của cô ta, cô ta và tình nhân quan hệ công khai. Nhưng mấy ngày trước hàng xóm phát hiện tình nhân của cô ở chung với người phụ nữ khác, liền nói cho cô ta biết, vì vậy cô ta rất tức giận, nhưng hắn hoàn toàn không để ý tới cô ta.

Ý NGHĨA CỦA DỤNG THẦN PHỤC TÀNG TRONG DỰ ĐOÁN NHÂN DUYÊN Dụng thần phục tàng có ý nghĩa không lộ diện, né tránh, không gặp, không thường xuyên ở nhà, không ở chung, rời xa, ra ngoài, quan hệ bí mật, qua lại lén lút,… Đồng thời cũng phải xem quan hệ Phục thần và Phi thần. Phi thần đối với Phục thần có ý nghĩa kiềm chế, áp chế, khống chế, thuộc về,… Nữ đoán hôn nhân, Quan Quỷ phục tàng tại Thê Tài, Huynh Đệ và Phi thần có ngũ hành giống hào Thế, nam đoán hôn nhân, Thê Tài phục tàng tại Quan Quỷ, Huynh Đệ và Phi thần có ngũ hành giống hào Thế, phần lớn chủ đối phương có người khác giới, hoặc đã kết hôn, hoặc xuất hiện người thứ ba, hoặc đã từng có hôn nhân và người yêu,… Cần phân biệt rõ ràng kết hợp Không Vong, Nguyệt phá, 12 cung trường sinh,… Ví dụ : Ngày Tân Mùi tháng Thìn, nữ đoán hôn nhân con trai, được quẻ Thiên Sơn Độn biến Hỏa Thiên Đại Hữu.

31

Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Thê Tài Dần mộc không hiện trên quẻ, phục tàng dưới hào 2 Quan Quỷ Ngọ hỏa, lâm Huyền Vũ, Huyền Vũ chủ đen, biểu thị cô gái có làn da ngăm đen. Hào Thế đè nén Dụng thần, Dụng thần nhập Mộ tại Nhật, hưu tù không thể lộ ra, biểu thị bản thân phản đối hôn sự này. Ứng Huynh Đệ Thân kim là Kỵ thần tại hào 5 phát động khắc Dụng thần. Hào Ứng là gia đình đối phương, hào 5 là gia trưởng, cũng bởi do vấn đề của gia trưởng đối phương ảnh hưởng đến hôn sự này. Nhưng Huynh Đệ được Nhật Nguyệt sinh, hóa hồi đầu sinh, hào sơ động đến sinh, Huynh Đệ lưỡng hiện, Huynh Đệ quá vượng, ngược lại không khắc Tài, vì vậy không ngăn cản được hôn sự này. Tử Tôn Tý thủy là con trai, phục dưới Thìn thổ, hiện tại Thìn thổ phát động hóa Tý thủy, phục thần xuất phục, lâm Bạch Hổ, thuyết minh con trai có chủ kiến, có quyền quyết định! Thân Tý Thìn hợp thủy cục, Tý thủy sinh Dần mộc, thuyết minh con trai rất yêu thích ngưỡng mộ đối phương Dần mộc. Tý thủy xung hào Thế Ngọ hỏa, vì vậy không cản được hôn sự này. Phản hồi: Thực tế người nữ mặt ngăm đen, mẹ cô ấy có bệnh tâm thần phân liệt, bản thân phản đối tụi nó quen nhau. =============

32

CÁC CẤP ĐỘ LUẬN QUẺ Cái này hoàn toàn dựa vào bản thân mình cảm nhận được thôi chứ không có sách vở nào thống kê. Bậc 0 : Nhập môn Bậc 1 : Chiêm cát hung – xem nơi Dụng (thần) Bậc 2 : Chiêm được mất – xem tổ hợp (Dụng thần và hào Thế) Bậc 3 : Chiêm ứng kì – xem nơi bệnh (của Dụng thần) Bậc 4 : Chiêm chi tiết – xem nơi tạp. Bậc 5 : Xem tổng luận : từ 1 quẻ xem được hết từ sức khoẻ, gia đạo, phong thuỷ nhà cửa, tài vận,… Bậc 6 : Bật kiếm tiền hoặc khai tông lập phái. Theo như kinh nghiệm của bản thân thì đa số sẽ dừng lại ở bước 3, đến bước 5 thì gần như là ở đẳng cấp lão sư. Mỗi cấp độ thì không có giới hạn về thời gian, tuỳ thuộc vào ngộ tính. Nói chung phải có 10.000 giờ nghiên cứu mới có thể trở thành chuyên gia, đừng bị ngộ nhận bởi chữ “thầy” mà người hỏi tự phong.

CÁC KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ Đây là phần khó nhất, mông lung nhất và đa số mọi người sẽ bỏ cuộc ở chương này. Các bạn cứ tưởng tượng là nếu như muốn xây 1 ngôi nhà vững chắc thì cái quan trọng nhất là móng, thì những kiến thức cơ bản này chủ yếu là về lý, muốn phát triển khả năng dự đoán đến mức cao hơn thì phải nắm vững lý thuyết ở bước này. Nó như 1 mớ thóc rời rạc, công việc của bạn là ngồi phân loại thóc thôi, rất mất thời gian và đòi hỏi nghị lực. Kiến thức về lý đa phần đều có trong các sách hiện nay như Chu Dịch Với Dự Đoán Học của Thiệu Vĩ Hoa, Tăng San Bốc Dịch của Dã Hạc lão nhân, ngoài ra còn có 1 cuốn Tăng San Bốc Dịch Bình Thích của Vương Hổ Ứng đại sư xem ở đây. Sau đây xin trình bày khái quát các lý thuyết mà các bạn phải nắm được

33



BÁT QUÁI



QUÁI TƯỢNG ĐỒ



8 CUNG và 64 QUẺ DỊCH



HỖN THIÊN GIÁP TÝ



LỤC THÂN CA



THẾ ỨNG



ĐỘNG BIẾN



DỤNG THẦN



DỤNG THẦN, NGUYÊN THẦN, KỴ THẦN, CỪU THẦN



SỰ VƯỢNG SUY CỦA NGUYÊN THẦN, KỴ THẦN



NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH



NGŨ HÀNH TƯƠNG KHẮC



KHẮC XỨ PHÙNG SINH



ĐỘNG TĨNH SINH KHẮC



ĐỘNG BIẾN SINH KHẮC XUNG HỢP



TỨ THỜI VƯỢNG TƯỚNG



NGUYỆT TƯỚNG



NHẬT THẦN



LỤC THẦN



LỤC HỢP



LỤC XUNG



TAM HÌNH



ÁM ĐỘNG



ĐỘNG TÁN



QUẺ BIẾN SINH KHẮC MỘ TUYỆT



PHẢN PHỤC



TUẦN KHÔNG



SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT



CHÚ THÍCH CHUNG VỀ CÁC THUẬT NGỮ TRONG ĐỀ MỤC CÁC CHƯƠNG

34



ỨNG KỲ



QUY HỒN, DU HỒN



NGUYỆT PHÁ



PHI THẦN, PHỤC THẦN



TIẾN THẦN VÀ THOÁI THẦN



TÙY QUỶ NHẬP MỘ



ĐỘC PHÁT – ĐỘC TĨNH



LƯỠNG HIỆN

Hiện giờ chính bản thân mình cũng không thể thuộc lòng hết những kiến thức này đâu nhưng nên thi thoảng vẫn phải đọc lại để nhớ đồng thời vỡ ra được nhiều điều.

PHÂN BIỆT LÝ – TƯỢNG – SỐ Đây là khái niệm gần như không có sách vở nào ghi rõ, may mà gần đây có sách của Vương Hổ Ứng đại sư đã làm sáng tỏ vấn đề này. Vương lão sư có nói nếu như không hiểu rõ tượng thì không thể phát triển khả năng dự đoán của bản thân lên được. Vậy phân biệt các khái niệm trên như thế nào ? Lý : là kiến thức xoay quay sự suy vượng hỷ kỵ của Dụng thần và các mối quan hệ xung quanh nó. Hiểu đơn giản : Dụng thần như 1 cái cây, muốn cây phát triển tốt thì bản thân cái cây phải khoẻ mạnh tươi tốt thì đây chính là vượng, tiếp đó muốn cây phát triển nhanh và bình thường thì phải được tưới nước và cung cấp chất dinh dưỡng – đây chính là Nguyên thần, Kị thần chính là sâu bọ và dịch bệnh làm suy yếu cái cây. Hiểu đơn thuần thì Lý là mối quan hệ của Nhật, Nguyệt và hào động với Dụng thần. Tượng : thể hiện 1 khái niệm trừu tượng hơn, phức tạp hơn nhiều. Đơn giản nếu Thê tài thường mang ý nghĩ là tiền tài, người vợ, tài vận buôn bán,… nhưng nếu ở phạm trù tượng thì không đơn giản như thế, nó còn mang ý nghĩa là hô hấp, phân, nước tiểu, kinh nguyệt, phân,… Đến tận bây giờ mình vẫn chưa thể vận dụng hoàn toàn tất cả ý nghĩa của Tượng vào để luận đoán quẻ, quả thực rất khó, rất khó. Số : cái này đơn giản hơn nhiều, mỗi 1 quẻ hoặc 1 địa chi đều có liên quan đến 1 số nhất định, đơn giản thôi. Ví dụ Tý 1 Sửu 2 Dần 3, hay là

35

Càn 1 Đoài 2 Ly 3 Chấn 4. Hoặc Thuỷ chủ số 1 và 6. Cái này đều có trong cuốn Hoá Giải Bí Truyền xem tại đây. Tổng hợp 3 khái niệm trên và vận dụng đầy đủ thì các bạn đã có 1 chỗ đứng nhất định trong bộ môn Dự đoán Lục Hào này rồi.

THỰC HÀNH LUẬN ĐOÁN Tham gia các group về Kinh Dịch, mới đầu nên luận đoán quẻ Mai hoa (giờ động tâm) sau thì chuyển sang quẻ gieo xu. Tuỳ vào lĩnh vực mình ưa thích là gì mà luận đoán, có rất nhiều như : buôn bán cầu tài, công việc, tìm đồ, con cái, bệnh, nhân duyên, phong thuỷ nhà cửa. Nói chung là rất nhiều, nên có 1 quyển sổ hoặc 1 file word lưu quẻ và lưu luận đoán, cũng như phản hồi của bạn để rút kinh nghiệm dần dần. Rồi cứ thế mà nâng dần lên thôi, quẻ gieo xu thì sẽ có nhiều hào động càng ngày độ khó sẽ càng tăng. Luôn luôn nhớ học phải đi đôi với hành, muốn thành công thì phải chấp nhận cô độc đừng quan tâm đến thế giới xung quanh.

GIỜ ĐỘNG TÂM HỎI QUẺ CÓ ĐÚNG HAY KHÔNG ? Giờ động tâm là lúc mà các bạn động tâm nghĩ về câu hỏi muốn đc giải đáp, có điều khái niệm này nhiều khi vẫn rất là mù mờ, nhiều người có tình bao biện là lúc em nghĩ đến, xin thưa 1 ngày các bạn nghĩ đến hơn 10 lần hoặc nhiều hơn nữa thì lần nào là chính xác nhất ? Tất cả những cách khác như seri tiền, nhặt đũa, vặt lá, đếm hạt ngô, nhặt tăm, lật sách,bát tự,vv… cũng đều gọi chung là quẻ Mai Hoa. Đầu tiên, quẻ Mai Hoa Dịch Số chỉ có một hào động, mỗi quẻ trong 64 quẻ chỉ có tối đa 6 loại biến hóa, cộng lại là 384 loại biến hóa. Do đó, Mai Hoa Dịch Số bắt buộc phải tìm kiếm biến hóa từ hỗ quái, tổng quái, thác quái, đảo quái,… để trích xuất thông tin. Trong khi đó, quẻ lục hào gieo đồng xu thì lại có 4096 loại biến hóa. Nếu kết hợp với sự khác nhau về sự việc được hỏi, giới tính và tuổi tác, năm tháng ngày giờ hỏi quẻ, thì sự biến hóa của lục hào càng nhiều hơn, ít nhất là có vài trăm vạn loại, thậm chí là ngàn vạn loại biến hóa. Xét về góc độ lấy quẻ thì cách lấy này dường như có tính đa dạng, tuy nhiên lượng thông tin của nó đã giảm đi rất nhiều. Do đó, tôi không chủ trương áp dụng phương thức lấy quẻ của Mai Hoa Dịch Số cho dự đoán lục hào, huống hồ cả hai hình thức trang quẻ có sự khác nhau về bản chất. Mai Hoa Dịch Số thì trước định ngoại quái sau định nội quái, còn 36

lục hào thì trang quẻ bắt đầu từ hào sơ lên phía trên, cả hai có sự khác biệt rất lớn. Mặc dù cũng có một số quẻ lấy theo phương pháp Mai Hoa Dịch Số, rồi dùng phương pháp lục hào để đoán đôi khi cũng có ứng nghiệm, nhưng suy cho cùng thì sự biến hóa nhận được từ hào động là rất hạn chế, khiến cho lượng thông tin của nó cũng giảm đi rất nhiều, rất khó xuất hiện những dạng như là phục ngâm, phản ngâm, tam hợp…, khiến cho tính chính xác của cát hung và ứng kỳ cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, cách tốt nhất vẫn là sử dụng hình thức gieo đồng xu để lấy quẻ. =================

XÁC ĐỊNH CÁT HUNG CỦA VẤN ĐỀ CẦN DỰ ĐOÁN Trước tiên là phải nắm bắt chính xác cát hung của sự vật được dự đoán, việc cát thì không cần hóa giải, chỉ khi nào trong quẻ xuất hiện thông tin không tốt thì mới cần tiến hành hóa giải. Từ trong quẻ phán đoán hoặc tìm kiếm phương án hóa giải, thông thường cần phải xoay quanh Dụng thần, sử dụng tương sinh, tương khắc, tương xung, tương hợp… giữa các địa chi, lại từ lục thân, lục thần, hào vị, ngũ hành, quái cung… kết hợp lại để trích xuất thông tin, xác định phương án hóa giải. Phương án hóa giải là từ thông tin tổng hợp của mỗi phương diện trong quẻ tổng kết ra, chứ không phải là bịa đặt vô căn cứ. Bằng không, hiệu quả hóa giải sẽ không tốt. Theo kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, phương án hóa giải trong quẻ giải thích càng hợp lý, càng phù hợp với quái lý, thì hiệu quả hóa giải càng rõ ràng. Dự đoán lục hào có tính lập thể, khi tìm kiếm phương án hóa giải thì phải suy xét toàn diện đến sự phối hợp tương hỗ giữa thời gian, không gian, con số, màu sắc,… Nếu chỉ mới rút ra được một thông tin mà đã tiến hành hóa giải thì hiệu quả thường chung chung. Ít nhất phải trích xuất hai thông tin trở lên rồi hẵng định ra phương án hóa giải.

TRÌNH TỰ HOÁ GIẢI Sau khi Dự trắc sư xác định cát hung của Dụng thần, đã xác định thông tin bất lợi cho Dụng thần trong quẻ là ở đâu thì sẽ đưa ra phương pháp hoá giải, sau khi đưa ra phương pháp hoá giải thì người hỏi quẻ cần gieo lại 1 quẻ khác với nội dung là phương pháp hoá giải đã nêu trên. VD : Nếu hoá giải theo…(nhắc lại phương pháp hoá giải được đưa ra) thì tài vận của tôi có tốt không? Gieo xong lại đưa cho nhà Dự trắc 37

nghiệm quẻ, nếu Dụng thần của quẻ vượng tướng có khí chứng tỏ phương pháp hoá giải đó là phù hợp thì tiến hành hoá giải theo phương pháp trên. Nếu Dụng thần hưu tù bị thương thì chứng tỏ phương pháp đó chưa phù hợp. Tóm tắt như sau : Bước 1 : Gieo quẻ lần 1 xác định cát hung của Dụng thần. Bước 2 : Dự trắc sư sẽ dựa vào quẻ ở bước 1 đến tìm thông tin bất lợi và đưa ra phương pháp hoá giải. Bước 3 : Gieo quẻ lại theo phương pháp hoá giải ở bước 2 nếu tốt thì tiến hành hoá giải nếu không tốt thì xem lại bước 2.

VẬT HOÁ GIẢI CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGƯỜI XUNG QUANH KHÔNG ? Câu trả lời là KHÔNG. Vật hóa giải đặt cho một người thì chỉ sản sinh ảnh hưởng đối với chính người đó, thông thường sẽ không ảnh hưởng đến những người khác trong nhà. Nếu trong nhà đồng thời có vài người sử dụng vật hóa giải, thì giữa các hóa giải cũng sẽ không phát sinh xung đột, khi đặt vật hóa giải, cũng có thể lấy từng vật hóa giải đặt ở trong phòng ngủ tương ứng của mỗi người. Khi sử dụng vật hoá giải là động vật và đồ chơi trang trí trong phòng ngủ, thường thì ảnh hưởng của chúng đối với vận mệnh con người là rất nhỏ. Cũng sẽ không sản sinh ra ảnh hưởng gì đối với vật hóa giải. Động vật, tranh, chữ,… chỉ có tác dụng như vật hóa giải khi nó được đặt ở một nơi nào đó.

CÔNG CỤ ĐỂ CHẾ TÁC VẬT HOÁ GIẢI Thông thường khi chế tác vật hóa giải, công cụ là không hạn chế. Khi chế tác vật hóa giải sử dụng chữ hoặc tranh, trong phẩm màu phải thêm vào thành phần chu sa. Nếu như chế tác vật hóa giải để mang theo bên người, thì thường tiến hành chế tác trên vải vàng hoặc giấy hoàng chỉ. Cũng có thể dùng bút thông thường viết tranh chữ, sau đó đóng dấu một bát quái chu sa.

38

THỜI GIAN ĐỂ CHẾ TÁC VẬT HOÁ GIẢI Thông thường, giờ Tý (23H-1H) là lúc tốt nhất để chế tác vật hóa giải. Bởi vì khoảng thời gian này đúng lúc là thời khắc âm dương luân chuyển, rất dễ khơi dậy sức mạnh của ngũ hành, thúc đẩy chuyển hóa vật thể và năng lượng. Nếu trong khoảng thời gian này không rảnh, thì có thể làm vào thời gian khác, giờ Tý đặt. Đương nhiên cũng có thể tuyển trạch khoảng thời gian có lợi cho Dụng thần để chế tác và đặt vật hóa giải. Nếu như bệnh tật và tai nạn cần hóa giải là do vật chất âm tính gây nên, thì vẫn có thể cứ sử dụng giờ Tý để hóa giải.

Ý THỨC KHI CHẾ TÁC VẬT HOÁ GIẢI Bất kể là bản thân hay người khác chế tác vật hóa giải, phải tập trung tinh thần một cách nghiêm túc để chế tác, không được qua loa. Bởi vì trong quá trình chế tác, ý thức của con người sẽ mang lại tác dụng dẫn dắt vật hóa giải. Nhưng khi mua vật phẩm để làm hóa giải, bởi vì mục đích của mua vật phẩm là được định hướng, vì vậy ý thức đó đã không tự giác dung nhập vào trong vật phẩm.

PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ VẬT HOÁ GIẢI SAU KHI KẾT THÚC Nếu như sau khi hóa giải thành công, còn cần tiếp tục sử dụng vật hóa giải hay không, có thể gieo một quẻ để xác định. Ví dụ như hóa giải bệnh tật, sau khi khỏi bệnh, có thể đoán thử xem hủy bỏ hóa giải thì sẽ ra sao? Nếu như trong quẻ xuất hiện thông tin bất lợi cho Dụng thần thì lại tiếp tục để một khoảng thời gian, nếu như xuất hiện thông tin có lợi cho Dụng thần thì có thể hủy bỏ. Nếu như vật hóa giải được đặt để hóa giải niên vận, đến cuối năm muốn thay đổi vật hóa giải, bởi vì khí của mỗi năm ảnh hưởng không giống nhau, cho nên phải căn cứ vào quẻ niên vận của năm tiếp theo mà thiết lập vật hóa giải lại từ đầu. Khi vật hóa giải được đặt trái với quẻ niên vận, đến cuối năm cũng không cần phải thay thế. Sau một thời gian hóa giải, nếu như hiệu quả rất nổi bật thì có thể tiếp tục sử dụng, nếu như không có hiệu quả rõ rệt thì có thể gieo lại một quẻ, xác định lại vật hóa giải, hoặc thêm vật hóa giải khác trên cơ sở ban đầu. ##################

39

KHÁI NIỆM DI THẦN PHÁP Trong dự đoán lục hào, khi trong một quẻ xuất hiện hai lục thân, thì lục thần lâm hai hào lục thân đó có thể được vay mượn lẫn nhau, hiện tượng này tôi gọi là di thần pháp. Khi phán đoán lấy một lục thân trong đó làm chủ, lục thần lâm lục thân này gọi là bản vị thần, lục thần mượn từ lục thân khác được gọi là hào thần, có thể viết hào thần ở bên cạnh bản vị thần để khi phán đoán sử dụng. Như vậy, một hào vị rất có thể xuất hiện hai lục thần. Về phương pháp sử dụng, hai lục thần trùng điệp có ba tác dụng như sau: 1. Bản vị thần là khởi đầu của bản chất sự vật, giai đoạn sơ cấp hoặc là nguồn gốc của sự vật; hào thần là xu thế hoặc là kết quả phát triển biến hóa của sự vật . 2. Hào thần dùng để thuyết minh bổ sung cho bản vị thần. 3. Bản vị thần và hào thần kết hợp tạo ra ý nghĩa mới. Phương pháp mượn lục thần cho lục thân chỉ là một phần trong di thần pháp mà thôi. Các phương pháp vay mượn khác, sau này có cơ duyên sẽ bàn. Trong các dự đoán thông thường, nếu như nắm được cách dùng này thì cũng đã đủ.

ÁP DỤNG KHI DỰ ĐOÁN Hai lục thần trùng điệp có những ý nghĩa chủ yếu sau đây.

THANH LONG Thanh Long gặp Chu Tước: Nói chuyện tao nhã, văn kiện quan trọng, tuyên truyền quảng cáo, thiệp mời dự tiệc, dùng từ lễ độ, say rượu chửi bậy, chỉ gà mắng chó, nói móc người khác, châm biếm người khác, lời ngon tiếng ngọt, từ ngữ mỹ miều, lời nói dễ nghe, vì tiền của mắc kiện tụng, thư tình, lời tâm tình, tiệc rượu, nịnh bợ, tin tức quan trọng, tiếng ồn trong phòng ăn, tranh đoạt tình nhân, lời nói thấm thía, khuyên người hành thiện, hôn môi, đồ trang điểm được tuyên truyền, lời lẽ chí lý, đau nhức phát viêm, sách đóng bìa cứng, đến nhà tán gẫu,… Thanh Long gặp Câu Trần: Tòa án cấp cao, thượng cấp ngành công an, nhà cao tầng, khu dân cư cao cấp, khách sạn sang trọng, ruộng cao sản, cây trồng cao sản, ung thư thực quản, u xơ tử cung, nhân viên công vụ, kiến trúc đẹp, núi cao tú lệ, vùng đất trù phú, làng giàu có và

40

đông đúc, đất đai màu mỡ, khu phong cảnh tự nhiên, sinh khó, vô cớ sưng đau, bề ngoài thâm trầm, buôn bán bất động sản, ung thư dạ dày, ăn chậm, nhà hàng, cục tài chính, thẩm mỹ viện, tiệm may, khoa phụ sản, câu lạc bộ,… Thanh Long gặp Đằng Xà: Ngụy quân tử, không ăn no, không có lễ độ, bần cùng, diêm dúa lòe loẹt, áo quần lố lăng, da mặt dày, váy, tóc quăn, uốn tóc, họ hàng xa, tham của, mù quáng vì tiền, sinh non, bị kẻ dâm đãng theo dõi, lăn lộn vì đau, khiêm tốn quá mức, sức ăn ít, bởi vì khuôn mặt đẹp mà động tâm, bởi vì tiền tài mà kiện tụng, bởi vì tình dục mà gặp phiền phức,… Thanh Long gặp Bạch Hổ: Khẩu Phật tâm xà, nham hiểm xảo quyệt, tình địch, vụ án giết người hiếp dâm, cướp đoạt, trúng độc tử vong, bệnh vì ăn uống, sinh con xuất huyết nhiều, sau khi uống rượu đánh nhau, sau khi uống rượu lái xe, gãy xương đau nhức, đường quốc lộ cao cấp, bảo đao, bảo kiếm, đạn đạo, vũ khí kiểu mới, kiên cường bất khuất, anh hùng khí khái, cao không với tới, gặp tai nạn khi đi thăm người thân, người chết vì tiền chim chết vì mồi, kẻ hai mặt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, ngoài mềm trong cứng,… Thanh Long gặp Huyền Vũ: Bằng mặt không bằng lòng, trộm cắp tiền của, thông dâm, buôn bán phụ nữ, lừa tiền, hối lộ, đầu cơ trục lợi, cơm không sạch sẽ, vật bẩn thỉu, giao dịch chợ đen, buôn lậu, tiền đánh bạc, dâm loạn bất kham, nội y nội khố, con riêng, giả nhân giả nghĩa, lừa đảo cao cấp, kẻ trộm chính nghĩa, quỹ đen, kiếm tiền bất minh, phá tài, quỷ kế đa đoan,…

CHU TƯỚC Chu Tước gặp Thanh Long: Nói chuyện có lễ độ, tình tự, thư tình, phát viêm dẫn tới đau nhức, vừa nói vừa ăn, lời nói văn minh, tranh giành tiền của, những ý nghĩa khác có thể tham khảo Thanh Long gặp Chu Tước. Chu Tước gặp Câu Trần: Đơn kiện, cáo trạng, công hàm, thư thông báo của cơ quan, văn kiện của cơ quan, giấy tờ nhà đất, quy định về nhà ở, nơi có tiếng ồn, ban tuyên giáo, do viêm dẫn tới ung thư, viêm dẫn tới phù thũng, phòng karaoke, nhà sách, thư viện, cục viễn thông, hợp đồng ruộng đất, kiện tụng vì bất động sản, lương thực bị côn trùng cắn, lời nói ngập ngừng, nói năng sơ suất dẫn tới bị liên lụy, văn tự ngục[1], quảng cáo công cộng,…

41

Chu Tước gặp Đằng Xà: Nói dối, nói trống rỗng, tin tức bất ngờ, giật mình khi nghe tin, nói chuyện quanh co, quan ti khẩu thiệt, dùng tự sát để dọa, công kích cá nhân, nói xấu người khác, nịnh bợ, chậm chạp không tỏ thái độ, nắm đầu đề câu chuyện, tiểu nhân quấy rối, tham ăn, thực phẩm hiếm có, không thích nói chuyện, ít nói, giọng nói lạ, kiến giải độc đáo, ma trơi, kỳ đàm quái luận[2], thư tống tiền, thao thao bất tuyệt, thực phẩm có mùi lạ, lời nói đáng sợ, thiên thư,… Chu Tước gặp Bạch Hổ: Biến đổi bệnh lý do phát viêm, nhiễm trùng máu, ăn cơm nhiễm bệnh, tranh cãi dẫn tới đánh nhau, nói quá thẳng, nói hống hách, chửi thề, tuyên truyền giao thông, thư thông báo bệnh tình nguy kịch, vừa nói vừa khóc, lời nói xúc động rơi lệ, lời nói đắc tội, chết cháy, sự cố y khoa dẫn đến kiện tụng, đánh nhau dẫn tới kiện tụng, thần chú giết người, thần chú ác độc, huyết thư, điều lệ giao thông, trường cảnh sát, giáo dục pháp luật, tri thức y học, điều khoản pháp luật, chiến tranh ngôn luận, hiểu biết trên đường, nhanh miệng,… Chu Tước gặp Huyền Vũ: Nghe trộm, nói thầm, lời nói hạ lưu, lời nói bẩn thỉu, lời đường mật, nói dối gạt người, không nói nên lời, lở loét phát viêm, mất tin tức, cơ mật, âm thanh không rõ ràng, ám ngữ, thần chú ác độc, bí mật phóng hỏa, đốt phá, công kích sau lưng, nói xấu người khác, sách đồi trụy, trộm cướp vào tù, ám hiệu, bàn bạc lén lút, trường tư thục, ý kiến cá nhân, mật báo, ban đỏ,… [1] Văn tự ngục là sự việc giai cấp thống trị bức hại những phần tử trí thức, cố ý trích dẫn câu chữ trong tác phẩm của họ để thêu dệt thành tội. [2] Kỳ đàm quái luận là một thành ngữ, chỉ lời lẽ hoang đường không hợp tình hợp lý.

CÂU TRẦN Câu Trần gặp Thanh Long: Sưng đau do ung thư, công quỹ ăn uống, phát tài nhờ bất động sản, đặc sản địa phương, trang trí nội thất tinh tế, công trình kiến trúc đẹp, thăm tù, nguy nga lộng lẫy, cung vàng điện ngọc, ung thư thực quản, u xơ tử cung, gan nhiễm mỡ có cồn, nhà máy rượu, quán rượu, quán cơm, cửa hàng quần áo, rượu lâu năm, thức ăn thừa, đồ cổ, ăn chậm, quần áo cũ, sinh khó, bạn cũ,… Có thể tham khảo Thanh Long gặp Câu Trần. Câu Trần gặp Chu Tước: Nhà bị cháy, phù thũng nên không thể nói chuyện hoặc tiểu tiện, sách kiến trúc, bản vẽ kiến trúc, lệnh bắt giữ, thông báo của chính phủ, lời nói trung thực, khế ước bất động sản, kiến 42

thức cũ, giáo dục cũ, giấy chứng nhận đất đai, giấy chứng nhận bất động sản, kiến thức nông nghiệp, nói chậm, lời lẽ tầm thường, nhắc lại chuyện xưa,… Có thể tham khảo Chu Tước gặp Câu Trần. Câu Trần gặp Đằng Xà: Hung trạch, quái trạch, nhà ma, ảo ảnh, tai họa lao ngục, kiến trúc đặc biệt, hoang dã, cây dây leo, tranh chấp bất động sản, cảnh sát gây phiền hà, ăn hiếp người hiền lành, cây nông nghiệp giảm sản lượng, hoa cỏ tàn lụi, không một bóng người, nội thất sơ sài, không bớt sưng, đất đai chật hẹp, địa phương nhỏ, địa phương hẻo lánh, vết sẹo,… Câu Trần gặp Bạch Hổ: Đánh nhau vì nhà cửa, cây trồng bị sâu bệnh, ung thư tử vong, cục máu đông, máu cô đặc, tắc động mạch, ung thư máu, sưng phù do gãy xương, ung thư xương, phẫu thuật cắt bỏ khối u, sườn núi đất, khối đất, đường đất, đường núi, nông cụ, nhà tù, nhà xác, nhà thuốc, bệnh viện, bộ vũ trang, cơ quan công an, đồn cảnh sát, phòng phá thai, khoa chỉnh hình,… Câu Trần gặp Huyền Vũ: Vào phòng ăn trộm, nốt ruồi, kỹ viện, hang ổ kẻ trộm, nơi ẩm thấp, kiến trúc thấp bé, cống ngầm, nước tưới ruộng, nhà ma, giả mạo công an, phòng giam, phòng tối, bãi rác, nhà thiếu ánh sáng,…

ĐẰNG XÀ Đằng Xà gặp Thanh Long: Giả dối, nhà giàu mới nổi, tiền của bất ngờ, mộng phát tài, trong mộng cưới vợ, mù quáng vì tiền, áo quần lố lăng,… Có thể tham khảo Thanh Long gặp Đằng Xà. Đằng Xà gặp Chu Tước: Trầm tĩnh ít nói, nói không hợp ý nhau, tin tức đặc biệt, tin tức giật gân, nói mớ, nói nhảm, tiếng kêu sợ hãi, đám cháy do sấm sét, vô cớ hỏa hoạn, lời nói chói tai, luận điệu kỳ quái,… Có thể tham khảo Chu Tước gặp Đằng Xà. Đằng Xà gặp Câu Trần: Sợ đến nỗi đi không nổi, vết sẹo, ung thư ruột, nơi nguy hiểm như núi cao vực sâu,… Có thể tham khảo Câu Trần gặp Đằng Xà. Đằng Xà gặp Bạch Hổ: Bụng dạ hẹp hòi, quái chiêu, vũ khí quái dị, ung thư máu, thiếu máu, huyết áp thấp, mãn kinh, bị xe đâm ngã, bệnh nan y, treo cổ tự tử, bị dây thừng siết cổ chết, kinh hãi mà chết, mắc bệnh vì giấc mơ, thêm Dịch Mã là chứng mộng du,…

43

Đằng Xà gặp Huyền Vũ: Tính tình quái gở, vụ án trộm cướp khác thường, âm hồn bất tán, phiền muộn, lừa gạt, nội thương, trong lòng sợ hãi, âm khí, kỳ dị, tà khí, âm u đáng sợ, quỷ kế đa đoan,…

BẠCH HỔ Bạch Hổ gặp Thanh Long: Chất dê da hổ, đường quốc lộ cao cấp, thêm Dịch Mã là đường cao tốc, bảo kiếm, tiền trợ cấp thương tật, tiền tuất, cửa hàng ven đường, ngành vận tải, tiền của trên đường, bán máu kiếm tiền, sát thủ chuyên nghiệp, lưu sản, đau bụng kinh, kiên cường bất khuất, tướng lĩnh cao cấp,… Có thể tham khảo Thanh Long gặp Bạch Hổ. Bạch Hổ gặp Chu Tước: Tin dữ, thư báo tử, tin xấu, lời nói thô bỉ, chửi thề, nói năng lỗ mãng, rên rĩ vì bệnh tật, nhiễm trùng máu, quảng cáo bên đường, tuyên truyền bên đường, giấy phép lái xe, sách y học, đơn thuốc, phiếu chẩn đoán, lá thư ngắn, chuyển phát nhanh, thư khiêu chiến, di thư, di ngôn, tiếng khóc,… Có thể tham khảo Chu Tước gặp Bạch Hổ. Bạch Hổ gặp Câu Trần: Sân đấm bốc, vũ đài, trường đua xe, nhà thi đấu, cơ quan chấp pháp, trại lính, ung thư máu, phòng phát thuốc, tiệm thuốc, phòng khám bệnh, cục đường bộ, thuốc viên, cây cầu, mỡ trong máu cao,… Có thể tham khảo Câu Trần gặp Bạch Hổ. Bạch Hổ gặp Đằng Xà: Thiếu máu, cung máu không đủ, cơ thể cường tráng, ít khi bị bệnh, đánh nhau vào tù, xương cốt biến dạng, đường đi quanh co, đường vòng, rẽ ngoặt, đường hẹp, đường nhỏ, sinh khó, sợi thép, cây kim, cốt thép, cáp thép, xe cáp, dược liệu quý báu,… Có thể tham khảo Đằng Xà gặp Bạch Hổ. Bạch Hổ gặp Huyền Vũ: Mương nước, sông ngòi, phá phách cướp bóc, cướp giật, giết người cướp của, trộm cướp giữa đường, tiểu tiện lề đường, đường đêm, bệnh sinh dục, buôn lậu dược phẩm, buôn lậu vũ khí, vận chuyển trái phép, sinh mủ, đường thuỷ,…

HUYỀN VŨ Huyền Vũ gặp Thanh Long: Tang vật, mại dâm, lừa tiền, đánh bạc, bệnh phong thấp đau nhức, hối lộ, dâm loạn bất kham, cơm nguội, phục vụ cá thể, bữa tiệc riêng tư, gợi cảm,… Có thể tham khảo Thanh Long gặp Huyền Vũ.

44

Huyền Vũ gặp Chu Tước: Nói xấu sau lưng, nịnh người khác, ngại nói rõ, thấp khớp, chia của không đều dẫn tới chấp, siêu âm, phóng hỏa, mách lẻo, mật báo, mật hàm, thông báo tìm vật, thư cá nhân, hồ sơ cá nhân, ý kiến cá nhân, nói thầm, lời lẽ bẩn thỉu, vu khống,… Có thể tham khảo Chu Tước gặp Huyền Vũ. Huyền Vũ gặp Câu Trần: Nổi mề đay, phong hàn dẫn tới phù thũng, cục nước đá, tài sản riêng, điểm ẩn náu, nhà ma, phần mộ, cơ cấu phi pháp, nhà máy ngầm, nốt ruồi, mụn cóc sinh dục, hắc điếm, mưa đá, cây cầu,… Có thể tham khảo Câu Trần gặp Huyền Vũ. Huyền Vũ gặp Đằng Xà: Trò lừa bịp, bắt cóc, nội tâm bất an, có tật giật mình, trộm cắp thường xuyên, kẻ cướp chuyên nghiệp, bị tên trộm bám đuôi, bị người khác theo dõi, tà khí,… Có thể tham khảo Đằng Xà gặp Huyền Vũ. Huyền Vũ gặp Bạch Hổ: Nội chiến, bí mật đấu tranh, nội bộ mâu thuẫn, bệnh phong thấp, bệnh AIDS, nội thương, lặng lẽ rơi lệ, tranh đấu riêng tư, chiến tranh lạnh, ám sát, hành nghề y trái phép, thuốc thang, xuân dược, âm u đáng sợ,… Có thể tham khảo Bạch Hổ gặp Huyền Vũ. ===============

LỤC HÀO NHẬP MÔN - PHẦN 2 – Tế Thuyết Lục Hào Dự Trắc Học hay Lục Hào Nhập Môn là 1 cuốn sách cơ bản về lí thuyết dự đoán lục hào cơ bản nền móng dành cho người mới bắt đầu học dự đoán lục hào của Vương Hổ Ứng lão sư, Tế là nhỏ là cơ bản, Thuyết là nói, hiểu nôm na là phần lí luận cơ bản nhất để luận đoán 1 quẻ dịch lục hào. Hy vọng seri bài viết này sẽ giúp các đồng môn có 1 cái nhìn tổng quát hơn, rõ ràng hơn. Trân trọng.

CHƯƠNG 3: VŨ TRỤ QUAN CỦA DỊCH I. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG Thế giới có nam thì có nữ, có cát thì có hung, tất cả sự vật trong vũ trụ đều có tính hai mặt. Bản thân vũ trụ 45

chính là do vũ trụ chính và vũ trụ phụ cấu thành, vũ trụ là một tổ hợp thể âm dương to lớn. Cô dương bất trưởng, cô âm bất sinh, âm dương phụ thuộc lẫn nhau, không thể tồn tại một cách độc lập. Chữ Dịch (易), xét về nguồn gốc và tổ hợp của văn tự thì chính là hợp thể của hai chữ Nhật (日) và Nguyệt (月). Nhật là dương, Nguyệt là âm, “Dịch” phản ánh sự biến hóa của âm dương. Nói cách khác, bản chất của “Dịch” là miêu tả quy luật phát triển và biến hóa của vũ trụ, sự phát triển và biến hóa của vũ trụ chính là do vai trò của âm dương tạo nên, quy luật mà nó tuân theo được cổ nhân gọi là “Đạo”. “Đạo” là bản chất của vũ trụ, thuật dự đoán chính là một phương tiện để nhận thức và cầu chứng[1] “Đạo”. Thuật dự đoán được xây dựng dựa trên nguyên lý âm dương, nó có thể dự đoán chính xác rất nhiều sự việc có liên quan đến con người, điều đó là bởi vì giữa con người và vũ trụ có mối quan hệ rất chặt chẽ. Con người là sản phẩm tất yếu của sự phát triển đến một giai đoạn nhất định của vũ trụ. Con người là tinh hoa của vũ trụ, là hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, mỗi một con người chính là một tiểu vũ trụ. Chỉ có nhận thức được vũ trụ, mới có thể thực sự nhận thức được nhân thể[2], chỉ có nhận thức được nhân thể, mới có thể giải đáp được những câu đố của vũ trụ. Con người là linh hồn của vạn vật, sự phát triển của vũ trụ cũng chính là sự phát triển của con người. Ở phương diện nhân thể, âm dương được thể hiện rất phong phú. Xét về giới tính, nữ là âm, nam là dương; xét về một cá nhân, ở trên là dương, phía dưới là âm, lưng là dương, ngực là âm, bên trái là dương, bên phải là âm, bên ngoài là dương, bên trong là âm, phủ là dương, tạng là âm. Cuộc đời của con người chính là một quá trình biến hóa của âm dương. Trước khi chưa thụ thai, con người ở dạng nhân tố di truyền, hoặc mật mã di truyền, là một hình thức tồn tại vô hình và âm tính, sau khi âm dương kết hợp thì phụ nữ mang thai, dương tính sẽ xuất hiện và hình thành thai nhi, đây 46

chính là sự chuyển biến từ âm đến dương. Nếu so sánh giữa thai nhi trong bụng và con người bên ngoài cơ thể thì thai nhi là âm, con người được sinh ra là dương. Sau khi được sinh ra, con người liên tục trưởng thành, lúc nhỏ là âm, lớn lên là dương, khi dương phát triển đến một giai đoạn nhất định, thì lại phát triển về hướng âm, thời trai tráng là dương, tuổi già là âm, người đang sống là dương, sau khi chết là âm. Chỉ có nắm vững nguyên lý âm dương, chúng ta mới có thể sử dụng thuật dự đoán lục hào dự doán chính xác xu thế phát triển của con người và sự vật.

II. HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH Từ góc độ của Dịch, ngũ hành là yếu tố cơ bản nhất để cấu thành thế giới vật chất, trong vạn sự vạn vật đều đã bao hàm các thành phần của ngũ hành, mỗi sự phát sinh, phát triển của sự vật đều là kết quả của tác dụng tương hỗ trong ngũ hành. Nói một cách cụ thể, ngũ hành là chỉ năm loại nguyên tố: thủy, hỏa, mộc, kim và thổ. Năm loại nguyên tố này là sự khái quát và tổng kết cao độ của người xưa về các thuộc tính của mọi sự vật trong vũ trụ. Trong ngũ hành, sự vật đại diện cho thủy có đặc tính là lạnh, hướng xuống, ẩm thấp, ẩm ướt, như nước, mưa, tuyết, ban đêm, màu đen, phía bắc, băng… đều thuộc về thuộc tính thủy. Đặc tính của hỏa là nóng ấm, sáng, hướng lên, bốc lên, như ngọn lửa, hào quang, mùa hạ, màu đỏ, phía nam… đều thuộc về thuộc tính hỏa. Đặc tính của mộc là sinh sôi, nhu hòa[3], khúc trực[4], thư triển[5], như thực vật, buổi sáng, mùa xuân, phía đông, hoa cỏ… đều thuộc về thuộc tính mộc. Đặc tính của kim là mát mẻ, sạch sẽ, túc giáng[6], thu liễm[7], như kim loại, mùa thu, màu trắng, phía tây… đều thuộc về thuộc tính kim. Đặc tính của thổ là trưởng dưỡng[8], sinh hóa,

47

thụ nạp, biến hóa, như đất, núi, màu vàng, trung ương… đều thuộc về thuộc tính thổ. Học thuyết ngũ hành không chỉ là sự phân loại tính chất sự vật, mà quan trọng hơn là nó đã nói rõ quy luật thông thường của sự vận động bên trong sự vật. Nói cách khác, quan hệ tương hỗ trong ngũ hành vừa có một mặt tương sinh vừa có một mặt tương khắc, chính bởi vì tác dụng của tương sinh tương khắc này mà sự vật trong vũ trụ mới có thể biến hóa và phát triển. Tương sinh của ngũ hành là thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim và kim sinh thủy. Mối quan hệ này là tổng kết từ thực tiễn lâu dài của người xưa khi quan sát các hiện tượng trong tự nhiên. Thí dụ, trong ngũ hành thì hoa cỏ, cây cối có thuộc tính là mộc, mặc dù là chúng sinh trưởng ở trong đất, nhưng nhất định phải có nước ẩm ướt thì mới có thể sinh trưởng, vì vậy mà cho rằng thủy sinh mộc. Lại như dùi gỗ có thể lấy được lửa, cây cối có thể bị đốt cháy, vì vậy mà cho rằng mộc sinh hỏa. Vật bị lửa đốt mà biến thành tro, tro chính là thổ, cho nên hỏa sinh thổ. Kim loại được tinh luyện từ khoáng thạch trong đất, vì vậy thổ có thể sinh kim. Kim loại sau khi nóng chảy có thể biến thành chất lỏng, hơi nước lại dễ dàng ngưng tụ thành giọt nước trên bề mặt kim loại nhẵn bóng, vì vậy mà người xưa cho rằng thủy là do kim sinh ra.

48

Tương khắc của ngũ hành là thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ và thổ khắc thủy. Nguyên lý tương khắc này cũng là từ việc quan sát thế giới tự nhiên mà quy nạp và tổng kết ra. Tính chất của thiên địa là nhiều thắng ít, nước có thể dập tắt lửa, do đó thủy khắc hỏa. Tinh luyện thắng cứng, lửa có thể làm cho kim loại nóng chảy, vì vậy hỏa khắc kim. Cương thắng nhu, đao cụ kim loại có thể chặt cây, cho nên kim khắc mộc. Chuyên thắng tán, rễ của cỏ cây có thể đâm vào đất, cho nên mộc khắc thổ. Thực thắng hư, đất có thể ngăn nước, do đó thổ khắc thủy. [1] cầu chứng: tìm cách chứng thực. [2] nhân thể: cơ thể con người. [3] nhu hòa: ôn hòa, dịu dàng, mềm mại [4] khúc trực: vừa có thể khúc khuỷu quanh co, lại vừa có thể suôn thẳng [5] thư triển: xòe ra, mở ra, giãn ra [6] túc giáng: là một thuật ngữ trong trung y. Phế chủ túc giáng, nghĩa là phế khí nên sạch, nên giáng xuống.

49

[7] thu liễm: thu lại [8] trưởng dưỡng: sinh ra và nuôi dưỡng

CHƯƠNG 4: CAN CHI VÀ DỰ ĐOÁN LỤC HÀO Từ những giáp cốt văn được khai quật cho thấy, từ thời nhà Thương, người ta đã sớm sử dụng Lục Thập Hoa Giáp để ghi lại ngày tháng năm. Lục Thập Hoa Giáp có một sức mạnh đáng kinh ngạc, bên trong nó có hàm chứa khái niệm thời gian-không gian, là phương tiện để truyền đạt thông tin vũ trụ và sự biến hóa của vạn sự vạn vật trong vũ trụ. Ngoài vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Dịch học, Lục Thập Hoa Giáp còn có ảnh hưởng sâu rộng đến các hệ thống học thuật khác sau này. Chẳng hạn như phép “Tý Ngọ Lưu Trú”, “Linh Quy Bát Pháp” trong Trung y hiện nay chính là cách lấy huyệt vị dựa vào thiên can địa chi của thời gian mà bệnh nhân đến. Có thể nói rằng, nếu không có sự xuất hiện của can chi thì lịch sử sẽ không xuất hiện thuật dự đoán lục hào.

I. THẬP THIÊN CAN Thập thiên can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Thứ tự sắp xếp này là cố định, nó cho thấy quá trình biến hóa của vạn vật từ sinh trưởng đến phồn thịnh, suy lão rồi tử vong. 1. Âm dương của thập thiên can Thiên can có phân chia âm dương, số lẻ là dương, số chẵn là âm. Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là dương, gọi là can dương; Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý thuộc âm, gọi là can âm. 2. Ngũ hành của thập thiên can 50

Giáp Ất là mộc, Bính Đinh là hỏa, Mậu Kỷ là thổ, Canh Tân là kim, Nhâm Quý là thủy. 3. Thập thiên can và phương vị Giáp Ất là phương Đông, Bính Đinh là phương Nam, Mậu Kỷ là trung ương, Canh Tân là phương Tây, Nhâm Quý là phương Bắc. Giữa thập thiên can còn tồn tại quan hệ tương hợp, tương xung, hợp hóa,… Tuy nhiên, trong dự đoán lục hào thường chỉ chú trọng can ngày dự đoán, dùng để an lục thần, những ý nghĩa khác thì rất ít khi dùng, vì vậy có thể bỏ qua không ghi ra.

II. THẬP NHỊ ĐỊA CHI Thập nhị địa chi là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Trong dự đoán lục hào, vai trò thập nhị địa chi là hết sức quan trọng, nhất định phải ghi nhớ thuộc tính ngũ hành và mối quan hệ sinh khắc xung hợp lẫn nhau của chúng. 1. Âm dương của thập nhị địa chi Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là chi dương. Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi là chi âm. 2. Ngũ hành của thập nhị địa chi Dần Mão cùng thuộc mộc, Dần là dương mộc, Mão là âm mộc. Tị Ngọ cùng thuộc hỏa, Ngọ là dương hỏa, Tị là âm hỏa. Thân Dậu cùng thuộc kim, Thân là dương kim, Dậu là âm kim. Hợi Tý cùng thuộc thủy, Tý là dương thủy, Hợi là âm thủy. Thìn Tuất Sửu Mùi cùng thuộc thổ, Thìn Tuất là dương thổ, Sửu Mùi là âm thổ. 3. Thập nhị địa chi và phương vị

51

Tý là phương Bắc, Sửu Dần là Đông Bắc, Mão là Đông, Thìn Tị là Đông Nam, Ngọ là phương Nam, Mùi Thân là Tây Nam, Dậu là phương Tây, Tuất Hợi là Tây Bắc. 4. Thập nhị địa chi và bốn mùa Dần Mão Thìn là mùa xuân, Tị Ngọ Mùi là mùa hạ, Thân Dậu Tuất là mùa thu, Hợi Tý Sửu là mùa đông. 5. Thập nhị địa chi và tháng Từ góc độ dương lịch mà nói, Dần là tháng 2, Mão là tháng 3, Thìn là tháng 4, Tị là tháng 5, Ngọ là tháng 6, Mùi là tháng 7, Thân là tháng 8, Dậu là tháng 9, Tuất là tháng 10, Hợi là tháng 11, Tý là tháng 12, Sửu là tháng 1. 6. Thập nhị địa chi và mười hai canh giờ Giờ Tý (23 giờ – 1 giờ), giờ Sửu (1 giờ – 3 giờ), giờ Dần (3 giờ – 5 giờ), giờ Mão (5 giờ – 7 giờ), giờ Thìn (7 giờ – 9 giờ), giờ Tị (9 giờ – 11 giờ), giờ Ngọ (11 giờ – 13 giờ), giờ Mùi (13 giờ – 15 giờ), giờ Thân (15 giờ – 17 giờ), giờ Dậu (17 giờ – 19 giờ), giờ Tuất (19 giờ – 21 giờ), giờ Hợi (21 giờ – 23 giờ). 7. Lục hợp của thập nhị địa chi Trong thập nhị địa chi, hai địa chi tương hợp thành cặp, có sáu cặp cho nên gọi là lục hợp. Tức là Tý và Sửu hợp, Dần và Hợi hợp, Mão và Tuất hợp, Thìn và Dậu hợp, Tị và thân Hợp, Ngọ và Mùi hợp. 8. Lục xung của thập nhị địa chi Trong thập nhị địa chi, hai địa chi tương xung thành cặp, có sáu cặp cho nên gọi là lục xung. Tức là Tý Ngọ tương xung, Sửu Mùi tương xung, Dần Thân tương

52

xung, Mão Dậu tương xung, Thìn Tuất tương xung, Tị Hợi tương xung. 9. Thập nhị địa chi và quan hệ đối ứng với động vật Tý chuột, Sửu trâu, Dần hổ, Mão thỏ, Thìn rồng, Tị rắn, Ngọ ngựa, Mùi dê, Thân khỉ, Dậu gà, Tuất chó, Hợi lợn. 10. Tam hợp của địa chi Thân Tý Thìn hợp thủy cục, Tị Dậu Sửu hợp kim cục, Dần Ngọ Tuất hợp hỏa cục, Hợi Mão Mùi hợp mộc cục. 11. Tam hình của địa chi Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Dần, Sửu Tuất Mùi tương hình, Tý hình Mão, Mão hình Tý, Thìn Ngọ Dậu Hợi tự hình. Trên đây là những khái niệm thường gặp liên quan đến thập nhị địa chi cần ghi nhớ. Phương pháp sử dụng cụ thể sẽ được trình bày chi tiết ở các chương sau.

CHƯƠNG 4: KIẾN THỨC CĂN BẢN VỀ BÁT QUÁI I. Ý NGHĨA CƠ BẢN CỦA BÁT QUÁI Sự vật trong vũ trụ nhiều không thể nào đếm được, lại thêm biến hóa đa dạng, tuy nhiên chúng không hỗn độn, mà tồn tại theo quy luật rất đáng ngạc nhiên. Căn cứ vào tính chất khác nhau của sự vật, người xưa đã sử dụng một khái niệm trừu tượng để quy nạp tất cả sự vật trong vũ trụ thành tám loại hình thái, đó chính là bát quái. Bát quái chính là Càn ☰, Khôn ☷, Chấn ☳, Tốn ☴, Khảm ☵, Ly ☲, C

53

ấn ☶, Đoài ☱, người xưa đã dùng tám quái này để đại diện cho mọi sự vật trong tự nhiên. Càn đại diện trời, Khôn đại diện đất, Chấn đại diện sấm, Tốn đại diện gió, Khảm đại diện nước, Ly đại diện lửa, Cấn đại diện núi, Đoài đại diện đầm (hồ). Ký hiệu cơ bản nhất để cấu thành bát quái là hào, hào phân âm dương, hào dương là vạch liền (__), hào âm là vạch đứt (_ _). Ba hào tạo thành một quái tượng, theo tượng tam tài thiên địa nhân. Hai quái đơn chồng lên nhau lại có thể tạo thành một trùng quái, quái ở trên gọi là thượng quái hay ngoại quái, quái ở dưới gọi là hạ quái hay nội quái. Có tổng cộng 64 trùng quái, gọi là 64 quái. Từ hình tượng ký hiệu của bát quái, người xưa đã đặt ra bài ca để thuận tiện cho việc ghi nhớ, bài ca đó như sau: “Càn tam liên, Khôn lục đoạn, Chấn ngưỡng vu, Cấn phúc uyển, Đoài thượng khuyết, Tốn hạ đoạn, Ly trung hư, Khảm trung mãn.” Tuy là chỉ có tám loại hình, nhưng bát quái có thể đối ứng với vạn sự vạn vật trong vũ trụ, có thể nói rằng bát quái chính là kho tàng thông tin vũ trụ. Mối quan hệ đối ứng giữa bát quái và giới tự nhiên có thể từ từ hiểu rõ sau khi đã đi sâu vào, ở đây chỉ cần ghi nhớ những ý nghĩa thường dùng là được. 1. Quan hệ đối ứng giữa bát quái và nhân sự Càn là cha, Khôn là mẹ, Chấn là trưởng nam, Tốn là trưởng nữ, Khảm là trung nam, Ly là trung nữ, Cấn là thiếu nam, Đoài là thiếu nữ. 2. Quan hệ đối ứng giữa bát quái và cơ thể Càn là đầu, Đoài là miệng, Chấn là chân, Tốn là đùi, Ly là mắt, Khảm là tai, Cấn là tay, Khôn là bụng. 54

3. Quan hệ đối ứng giữa bát quái và nội tạng Càn là đầu, phổi, ruột già; Khôn là lá lách, dạ dày; Chấn là gan, mật; Tốn là gan, mật; Khảm là thận, bàng quang; Ly là tim, ruột non; Cấn là lá lách, dạ dày; Đoài là phổi, ruột già,… 4. Quan hệ đối ứng giữa bát quái và phương vị Càn là Tây Bắc, Đoài là phương Tây, Ly là phương Nam, Chấn là phương Đông, Tốn là Đông Nam, Khảm là phương Bắc, Cấn là Đông Bắc, Khôn là Tây Nam. Sự đối ứng giữa bát quái và vạn sự vạn vật có thể được phân chia vô cùng vô tận, trong thuật dự đoán Mai Hoa Dịch Số thì được ứng dụng rất rộng rãi, tuy nhiên trong dự đoán lục hào thì không được sử dụng nhiều. 5. Thuộc tính ngũ hành của bát quái Càn Đoài thuộc kim, Khôn Cấn thuộc thổ, Ly thuộc hỏa, Chấn Tốn thuộc mộc, Khảm thuộc thủy.

II. PHÂN CUNG BÁT QUÁI Từ bát quái phát triển thành 64 quái, 64 quái này được phân thành tám cung, mỗi cung gồm tám quẻ, thứ tự sắp xếp của nó là cố định bất biến, mỗi quẻ có một tên gọi riêng. Cung Càn: Quẻ đầu tiên, thượng quái hạ quái đều là Càn, gọi là Càn Vi Thiên, cũng gọi là quẻ đầu cung Càn. Quẻ thứ hai thượng Càn hạ Tốn, gọi là Thiên Phong Cấu, hoặc nhất thế quái cung Càn. Quẻ thứ ba thượng Càn hạ Cấn, gọi là Thiên Sơn Độn, hoặc nhị thế quái cung Càn. Quẻ thứ tư thượng Càn hạ Khôn, gọi là Thiên Địa Bĩ, hoặc tam thế quái cung Càn. Quẻ thứ năm thượng Tốn hạ Khôn, gọi là Phong Địa Quan, hoặc tứ

55

thế quái cung Càn. Quẻ thứ sáu thượng Cấn hạ Khôn, gọi là Sơn Địa Bác, hoặc ngũ thế quái cung Càn. Quẻ thứ bảy thượng Ly hạ Khôn, gọi là Hỏa Địa Tấn, hoặc quẻ du hồn cung Càn. Quẻ thứ tám thượng Ly hạ Càn, gọi là Hỏa Thiên Đại Hữu, hoặc quẻ quy hồn cung Càn. Tám quẻ cung Đoài là: Đoài Vi Trạch, Trạch Thủy Khốn, Trạch Địa Tụy, Trạch Sơn Hàm, Thủy Sơn Kiển, Địa Sơn Khiêm, Lôi Sơn Tiểu Quá, Lôi Trạch Quy Muội. Tám quẻ cung Ly là: Ly Vi Hỏa, Hỏa Sơn Lữ, Hỏa Phong Đỉnh, Hỏa Thủy Vị Tế, Sơn Thủy Mông, Phong Thủy Hoán, Thiên Thủy Tụng, Thiên Hỏa Đồng Nhân. Tám quẻ cung Chấn là: Chấn Vi Lôi, Lôi Địa Dự, Lôi Thủy Giải, Lôi Phong Hằng, Địa Phong Thăng, Thủy Phong Tỉnh, Trạch Phong Đại Quá, Trạch Lôi Tùy. Tám quẻ cung Tốn là: Tốn Vi Phong, Phong Thiên Tiểu Súc, Phong Hỏa Gia Nhân, Phong Lôi Ích, Thiên Lôi Vô Vọng, Hỏa Lôi Phệ Hạp, Sơn Lôi Di, Sơn Phong Cổ. Tám quẻ cung Khảm là: Khảm Vi Thủy, Thủy Trạch Tiết, Thủy Lôi Truân, Thủy Hỏa Ký Tế, Trạch Hỏa Cách, Lôi Hỏa Phong, Địa Hỏa Minh Di, Địa Thủy Sư. Tám quẻ cung Cấn là: Cấn Vi Sơn, Sơn Hỏa Bí, Sơn Thiên Đại Súc, Sơn Trạch Tổn, Hỏa Trạch Khuê, Thiên Trạch Lý, Phong Trạch Trung Phu, Phong Sơn Tiệm. Tám quẻ cung Khôn là: Khôn Vi Địa, Địa Lôi Phục, Địa Trạch Lâm, Địa Thiên Thái, Lôi Thiên Đại Tráng, Trạch Thiên Quải, Thủy Thiên Nhu, Thủy Địa Tỷ. Tám quẻ đầu tiên ở mỗi cung đều là tám quẻ thuần, quẻ thứ bảy ở mỗi cung gọi là quẻ du hồn, quẻ thứ tám gọi là quẻ quy hồn. Thuộc tính ngũ hành của mỗi quẻ trong cung đều tương đồng với thuộc tính của cung đó. Nghĩa

56

là, thuộc tính ngũ hành của tám trùng quái trong cung Càn đều là kim, thuộc tính ngũ hành của tám trùng quái trong cung Khôn đều là thổ, những trường hợp khác cũng tương tự như vậy. =========

CHƯƠNG 6: PHƯƠNG PHÁP LẤY QUẺ Lấy quẻ, hay còn gọi là khởi quẻ, là bước đầu tiên trong dự đoán lục hào. Người ta thường sử dụng ba đồng tiền để trích xuất quái tượng, gọi là “phép dùng đồng tiền thay cỏ thi”, hay “phép gieo đồng tiền”,… Khoảng từ thời Chiến Quốc đến giữa thời Hán, phương pháp gieo đồng tiền đã được sử dụng để thay thế phương pháp dùng thẻ tre hoặc cỏ thi, nhờ đó mà tốc độ lấy quẻ trở nên nhanh hơn. Dự đoán lục hào sử dụng đồng tiền để lấy quẻ, phương pháp của nó độc đáo, đơn giản mà đầy ý nghĩa sâu sắc. Mỗi đồng tiền được chia thành mặt chính và mặt sau, tượng trưng cho hai khí âm dương. Mặt có chữ là âm, mặt không có chữ là dương, ba đồng tiền lại tượng trưng cho tam tài thiên địa nhân. Bên ngoài của đồng tiền là hình tròn tượng trưng cho trời, lỗ bên trong là hình vuông tượng trưng cho đất, điều này bắt nguồn từ thuyết trời tròn đất vuông (Càn là trời, là tròn; Khôn là đất, là vuông). Bộ phận ở giữa cạnh ngoài và lỗ bên trong được gọi là thịt, tượng trưng cho con người có xác thịt. Vì vậy, trong ba đồng tiền nhỏ bé đã bao hàm lý lẽ âm dương trời đất, đồng thời cũng phản ánh vũ trụ quan đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam. Nghi thức trước khi xin quẻ của người xưa khá rườm rà, người ta thường phải đốt nhang, tắm gội để bày tỏ lòng tôn kính đối với thần linh và thỉnh cầu thần linh cho gợi ý, nhưng trên thực tế dự đoán lục hào không liên quan đến thần linh, mà đó chỉ là một loại hoạt động của tiềm thức, chỉ cần động ý định dự đoán là có thể lấy đồng tiền gieo quẻ. Tuy nhiên, nếu người xin đoán coi việc này là trò đùa, căn bản là không có ý định dự đoán, thì có thể thông tin trong quái tượng sẽ không phản ánh chính xác. Khi lấy quẻ, bất kể là người được cử đến gieo quẻ hay là dự trắc sư gieo quẻ đều được, gieo quẻ chỉ là một hình thức trích xuất quái tượng. Phương pháp lấy quẻ là bảo người xin đoán nắm ba đồng tiền trong tay, úp kín hai tay lại, đừng để đồng tiền rơi ra khỏi tay, sau đó lắc lên xuống, khiến cho các đồng tiền dao động tạo ma sát, sản sinh từ trường tương thông với tâm linh (đương nhiên là bản thân dự trắc sư cũng có thể gieo quẻ thay cho người được cử đến). Sau khi lắc vài lần thì thả

57

xuống mặt bàn hoặc khay có đáy bằng (tránh thả xuống vật mềm), xem và ghi lại tình hình chính phản của ba đồng tiền, sau đó đặt các đồng xu trở lại trong tay và tiếp tục gieo. Gieo như vậy sáu lần là được một trùng quái. Lúc ghi lại kết quả của quái tượng, một mặt lưng hai mặt chữ là thiếu dương, là đơn, dùng một gạch ” ” để biểu thị. Một mặt chữ hai mặt lưng là thiếu âm, là sách[1], dùng hai gạch ” ” để biểu thị. Ba mặt lưng là lão dương, là trùng, dùng vòng tròn “O ” để biểu thị bên cạnh ” “. Ba mặt chữ là lão âm, là giao, dùng dấu gạch chéo “X” để biểu thị bên cạnh ” “. Ghi quẻ theo thứ tự từ dưới lên trên, kết quả của lần gieo đầu tiên là hào sơ, kết quả của lần gieo thứ hai là hào hai, tương tự như vậy cho đến hào sáu. Mỗi quẻ đều do sáu hào tạo thành, cho nên gọi là quẻ lục hào. Lão dương và lão âm ở trong quẻ lục hào gọi là hào động, là biểu thị hào vị này sẽ phát sinh biến hóa, dương động biến âm, âm động biến dương, phản ánh đầy đủ triết lý của vũ trụ là vật cực tất phản, dương cực biến âm, âm cực biến dương. Hào được biến ra gọi là hào biến. Quẻ gieo ra gọi là quẻ chính, quẻ nhận được sau khi biến hóa gọi là quẻ biến. Cũng có quẻ không có hào động, chỉ có quẻ chính. Thử nêu ra một ví dụ để nói rõ: Lần sáu gieo được 2 mặt lưng 1 mặt chữ: (thiếu âm) hào 6 Lần năm gieo được 3 mặt lưng:

o (lão dương) hào 5

Lần bốn gieo được 3 mặt chữ:

x (lão âm) hào 4

Lần ba gieo được 1 mặt lưng 2 mặt chữ:

(thiếu dương) hào 3

Lần hai gieo được 2 mặt lưng 1 mặt chữ:

(thiếu âm) hào 2

Lần đầu gieo được 1 mặt lưng 2 mặt chữ: (thiếu dương) hào sơ Quẻ này trên Khảm dưới Ly là quẻ Thủy Hỏa Ký Tế, bởi vì hào 4 và hào 5 phát động, phát sinh biến hóa, sau khi biến hóa sẽ thành trên Chấn dưới Ly, là quẻ Lôi Hỏa Phong. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế là quẻ chính, quẻ Lôi Hỏa Phong là quẻ biến. [1] sách: nứt ra

CHƯƠNG 7: PHƯƠNG PHÁP TRANG QUẺ Sau khi trích xuất được quẻ, các bước tiếp theo chính là lắp ráp can chi, Thế Ứng, lục thân và lục thần,… Trong dự đoán lục hào, những công 58

việc này được gọi là trang quẻ (lắp ráp quẻ). Trước khi trang quẻ, chúng ta phải có một nhận thức cơ bản về bát quái. Căn cứ vào nguyên lý âm dương, bát quái có thể được chia thành hai loại là dương quái và âm quái. Càn, Chấn, Khảm, Cấn là dương quái; Khôn, Tốn, Ly, Đoài là âm quái. Mỗi trùng quái được chia thành thượng quái và hạ quái, tám cung tạo thành 64 quái đều có thuộc tính ngũ hành của nó, quẻ đầu tiên của mỗi cung được gọi là bản cung, quẻ đầu hoặc quẻ thuần, bảy quẻ khác mà nó thống lĩnh gọi là phi cung. Thuộc tính ngũ hành của các phi cung đều tương đồng với bản cung, quẻ thứ bảy của mỗi cung được gọi là quẻ du hồn, quẻ thứ tám được gọi là quẻ quy hồn.

I. PHƯƠNG PHÁP SẮP XẾP CAN CHI Việc phối thiên can địa chi lên sáu hào vị của quẻ được gọi là nạp giáp. Trong dự đoán thực tế, thiên can không tham gia vào việc phán đoán cát hung, mà thông thường chỉ dùng để phán đoán trích xuất con số. Do đó, khi trang quẻ thường tỉnh lược thiên can và chỉ nạp địa chi. Nạp giáp ca Càn kim Giáp Tý ngoại Nhâm Ngọ, Khảm thủy Mậu Dần ngoại Mậu Thân. Chấn mộc Canh Tý ngoại Canh Ngọ, Cấn thổ Bính Thìn ngoại Bính Tuất. Khôn thổ Ất Mùi ngoại Quý Sửu, Tốn mộc Tân Sửu ngoại Tân Mùi. Ly hỏa Kỷ Mão ngoại Kỷ Dậu, Đoài kim Đinh Tị ngoại Đinh Hợi. Bài ca nạp giáp này chính là căn cứ và phương pháp để lắp ráp can chi cho mỗi hào vị. Mỗi quẻ đều nạp can chi từ hào sơ, căn cứ vào nguyên lý bát quái âm dương thuận nghịch, dương quái thì nạp can chi dương thuận chiều kim đồng hồ (theo thứ tự của 12 chi, tức là Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất), âm quái thì nạp can chi âm ngược chiều kim đồng hồ (ngược với thứ tự của 12 chi, tức là Hợi, Dậu, Mùi, Tị, Mão, Sửu). Ví dụ, giả sử gieo được quẻ Thủy Phong Tỉnh. Hạ quái là Tốn, Tốn tại nội quái nạp Tân Sửu, Tốn là âm quái, đi ngược chiều nạp can chi âm là Tân Sửu, Tân Hợi, Tân Dậu, không dùng chi dương. Thượng quái là Khảm, Khảm tại ngoại quái nạp Mậu Thân, Khảm là dương quái đi thuận, tức là Mậu Thân, Mậu Tuất, Mậu Tý, chỉ nạp can chi dương, không dùng chi âm. Kết quả của phép nạp giáp như sau:

59

II. PHƯƠNG PHÁP AN THẾ – ỨNG Thế Ứng là thứ thể thiếu trong dự đoán lục hào, cũng là một trong những căn cứ để dự đoán cát hung của sự vật. Thế Ứng là linh hồn trong quẻ, một quẻ nếu như không có Thế Ứng, thì cũng giống như một quân đội không có tham mưu trưởng và chỉ huy, đã mất đi trung tâm của quẻ. Vị trí Thế Ứng của mỗi quẻ là cố định bất biến, không thể an sai. Nếu an sai Thế Ứng thì rất khó nắm bắt được chủ thứ của sự vật. Thời xưa, người ta an Thế Ứng bằng cách ghi nhớ thứ tự của các quẻ trong mỗi cung bát quái, khiến cho rất nhiều người mới học phải tiêu tốn không ít thời gian ở bước này. Dưới đây, tôi sẽ chỉ cho mọi người một phương pháp không cần nhớ tên của 64 quẻ mà vẫn có thể an Thế Ứng, đồng thời còn có thể tìm được quái cung. Tôi gọi đó là hào biến pháp an Thế Ứng tầm cung quyết. Hào biến pháp an Thế Ứng tầm cung quyết Tầm Thế tòng sơ vãng thượng luân, âm hào biến dương dương biến âm. Biến chí nội ngoại tương đồng quái, cai hào tức vi Thế sở lâm. Nhược đáo ngũ hào quái nhưng dị, chuyển tòng tứ hào hướng hạ hành. Nhược đáo sơ hào phương vi chỉ, quy hồn Thế tại tam hào lâm. Nội ngoại tương đồng vật tu biến, lục hào an Thế vi bát thuần. Ký đắc nội ngoại tương đồng quái, nguyên quái tức dĩ thử vi cung. Nhược vấn Ứng hào an hà xử, Thế cách lưỡng hào tức vi Ứng.

60

Đây là một phương pháp an Thế Ứng kiêm tìm cung. Sau khi được quẻ, phải tìm xem hào Thế của quẻ này nằm ở hào nào, có thể biến từ hào sơ lên trên, gặp hào dương thì biến thành hào âm, gặp hào âm thì biến thành hào dương, cứ biến đến khi nội quái và ngoại quái giống nhau, hào sau cùng biến khiến cho nội ngoại quái giống nhau chính là hào vị lâm hào Thế. Ví dụ quẻ Thủy Trạch Tiết, nội ngoại quái không giống nhau, ngoại là Khảm, nội là Đoài, chúng ta biến từ hào sơ lên trên, hào sơ là hào dương, biến nó thành hào âm, sau khi đã biến hào sơ thì nội quái và ngoại quái giống nhau, vậy thì hào Thế của quẻ này nhất định tại hào sơ, đồng thời có thể khẳng định Thủy Trạch Tiết thuộc cung Khảm. Lại ví dụ quẻ Sơn Thủy Mông, nội ngoại quái không giống nhau, ngoại quái là Cấn, nội quái là Khảm, chúng ta biến từ hào sơ lên trên, hào sơ là hào âm biến thành hào dương, hào 2 là hào dương, biến thành hào âm. Hào 3 là hào âm, biến thành hào dương, hào 4 là hào âm, biến thành hào dương, khi biến đến hào 4, nội quái và ngoại quái đều biến thành quẻ Ly, vậy thì hào Thế của quẻ này là hào 4, hơn nữa có thể khẳng định Sơn Thủy Mông là quẻ trong cung Ly. Nếu biến đến hào 5 mà nội ngoại quái vẫn chưa giống nhau thì chuyển từ hào 4 biến xuống. Hào 6 là tông miếu, vĩnh viễn không thể biến, sau khi đã biến hào 4, nếu nội ngoại xuất hiện hai quẻ giống nhau, thì hào Thế tại hào 4, đồng thời có thể khẳng định quẻ này là quẻ du hồn. Ví dụ quẻ Phong Trạch Trung Phu, hai quẻ thượng hạ không giống nhau, thượng là Tốn, hạ là Đoài, chúng ta biến từ hào sơ lên trên, hào sơ là hào dương, biến thành hào âm, hào 2 là hào dương, biến thành hào âm, hào 3 là hào âm, biến thành hào dương, hào 4 là hào âm, biến thành hào dương, hào 5 là hào dương, biến thành hào âm. Sau khi biến đến hào 5 mà thượng hạ quái vẫn chưa giống nhau, thượng quái đã biến thành Ly, hạ quái đã biến thành Cấn. Vậy thì chuyển từ hào 4 biến xuống, hào 4 là dương, lại biến về thành âm, sau khi biến hào 4 thì hai quẻ nội ngoại đều thành Cấn, lúc này có thể khẳng định hào Thế của quẻ này là tại hào 4, hơn nữa là quẻ du hồn của cung Cấn. Nếu như chuyển từ hào 4 biến xuống mà biến đến hào sơ mới xuất hiện hai quẻ thượng hạ giống nhau thì quẻ này là quẻ quy hồn, hào Thế an tại hào 3. Ví dụ quẻ Sơn Phong Cổ, hai quẻ thượng hạ khác nhau, thượng là quẻ Cấn, hạ là quẻ Tốn, chúng ta biến từ hào sơ lên trên, hào sơ là hào âm,

61

biến thành hào dương, hào 2 là hào dương, biến thành hào âm, hào 3 là hào dương, biến thành hào âm, hào 4 là hào âm, biến thành hào dương, hào 5 là hào âm, biến thành dương. Sau khi biến đến hào 5, ngoại quái đã biến thành Càn, nội quái đã biến thành Chấn, hai quẻ thượng hạ vẫn khác nhau, vậy thì chuyển từ hào 4 biến xuống, hào 4 là hào dương, biến về thành hào âm, hào 3 là hào âm, biến về thành hào dương, hào 2 là hào âm, biến về thành hào dương, hào sơ là hào dương, biến về thành hào âm, lúc này hai quẻ thượng hạ đã giống nhau, đều thành quẻ Tốn. Do đó, chúng ta có thể khẳng định quẻ Sơn Phong Cổ là quẻ quy hồn thuộc cung Tốn, hào Thế tại hào 3. Quẻ quy hồn còn có một phương pháp phán đoán đơn giản hơn, tức là sau khi gieo ra quẻ, đầu tiên xem có phải là quẻ quy hồn hay không, nếu không phải thì dùng phương pháp an Thế Ứng ở trên. Phương pháp tìm đơn giản đó là trước tiên biến đổi âm dương của hào 5, nếu như sau khi biến mà tạo thành quẻ có nội ngoại quái giống nhau, thì quẻ đó chính là quẻ quy hồn. Ví dụ như quẻ Sơn Phong Cổ ở trên, hào 5 là hào âm, sau khi biến nó thành hào dương thì nội ngoại quái đều thành quẻ Tốn, như vậy có thể biết Sơn Phong Cổ là quẻ quy hồn thuộc cung Tốn, lấy hào Thế an tại hào 3. Nếu ban đầu hai quẻ thượng hạ giống nhau thì không cần phải biến, đó chắc chắn là quẻ bản cung và hào Thế tại hào 6, giống như Càn Vi Thiên. Sau khi tìm được hào Thế thì an hào Ứng rất dễ, nó và hào Thế cách nhau hai hào.

III. AN LỤC THÂN Lục thân là chỉ Huynh Đệ, Phụ Mẫu, Quan Quỷ, Thê Tài, Tử Tôn. Đây là lấy quan hệ lục thân của nhân sự đưa vào trong quẻ, dùng để suy diễn tương đồng sự sinh khắc chế hóa giữa các sự vật. Do đó, lục thân có thể bao hàm rất nhiều ý nghĩa chứ không thể chỉ hiểu trên mặt chữ, chúng ta có thể xem nó như là một loại ký hiệu của dự đoán lục hào. Lục thân ở mỗi hào vị trong quẻ chính và trong quẻ biến đều được xác định dựa trên mối quan hệ sinh khắc giữa ngũ hành của địa chi nạp hào và thuộc tính ngũ hành của quái cung quẻ chính. Địa chi nạp hào có thuộc tính ngũ hành tương đồng với cung được gọi là “Ta”, dùng Huynh Đệ để biểu thị, cái sinh ta thì dùng Phụ Mẫu để biểu thị, cái khắc ta thì dùng Quan Quỷ để biểu thị, cái ta sinh thì dùng Tử Tôn để biểu thị, cái ta khắc thì dùng Thê Tài để biểu thị. Trong ứng dụng

62

thực tế, người ta thường viết tắt Huynh Đệ là Huynh, Phụ Mẫu là Phụ, Quan Quỷ là Quan hoặc Quỷ, Tử Tôn là Tử, Thê Tài là Tài. Muốn an lục thân cho một quẻ thì trước tiên phải biết quẻ đó thuộc về cung gì. Nếu như nắm được “hào biến pháp an Thế Ứng tầm cung quyết” thì chúng ta có thể dễ dàng tìm được cung của một quẻ nào đó, sau khi tìm được cung của quẻ chính thì chúng ta có thể dựa vào mối quan hệ sinh khắc giữa thuộc tính ngũ hành của cung và ngũ hành của địa chi nạp hào để an lục thân. Ví dụ quẻ Thủy Phong Tỉnh. Thuộc cung Chấn, thuộc tính ngũ hành của nó là mộc. Lấy cung là “Ta”, hào sơ Sửu thổ là cái ta khắc, vì vậy phối Thê Tài; hào 2 là Hợi thủy, là cái sinh ta, phối Phụ Mẫu; hào 3 Dậu kim, là cái khắc ta, phối Quan Quỷ; hào 4 Thân kim, cũng là cái khắc ta, phối Quan Quỷ; hào 5 Tuất thổ, là cái ta khắc, phối Thê Tài; hào 6 Tý thủy, là cái sinh ta, phối Phụ Mẫu. Sau khi phối lục thân thì được quẻ như sau.

Nếu như một quẻ vừa có quẻ chính vừa có quẻ biến, thì thuộc tính ngũ hành của lục thân quẻ biến cũng tương đồng với thuộc tính ngũ hành của lục thân quẻ chính, trong quẻ chính kim là Phụ Mẫu thì trong quẻ biến kim cũng là Phụ Mẫu, trong quẻ chính kim là Quan Quỷ thì trong quẻ biến kim cũng là Quan Quỷ. Bất kể là quẻ biến có thuộc cung nào thì khi phối lục thân cho nó cũng đều phải dựa vào thuộc tính của cung quẻ chính. Ví dụ quẻ Thủy Trạch Tiết biến quẻ Thủy Địa Tỷ, quẻ chính Thủy Trạch Tiết thuộc cung Khảm, thuộc tính ngũ hành là thủy. Hào sơ Tị hỏa là cái ta khắc, phối Thê Tài; hào 2 Mão mộc, là cái ta sinh, phối Tử Tôn; hào 3 Sửu thổ, là cái khắc ta, phối Quan Quỷ; hào 4 Thân kim, là cái sinh ta, phối Phụ Mẫu; hào 5 Tuất thổ, là cái khắc ta, phối Quan Quỷ, hào 6 Tý thủy, là cái tỷ hòa, phối Huynh Đệ. Nội quái Đoài biến Khôn, hào sơ và hào 2 phát động. Hào sơ Tị hỏa phát động biến ra Mùi thổ, là

63

cái khắc ta, phối Quan Quỷ, hào 2 Mão mộc phát động biến ra Tị hỏa là cái ta khắc, phối Thê Tài. Sau khi phối lục thân thì được quẻ chính và quẻ biến như sau.

Trong dự đoán lục hào, thông thường chỉ coi trọng tác dụng sinh khắc của hào biến đối với hào bản vị (tức là hào động). Do đó, Thế Ứng và các hào khác của quẻ biến có thể được lược bớt, chỉ cần ghi ra hào biến là được.

IV. AN LỤC THẦN Lục thần cũng gọi là lục thú, là chỉ Thanh Long, Chu Tước, Câu Trần, Đằng Xà, Bạch Hổ, Huyền Vũ. Trong đó, Đằng Xà còn được gọi là Trình Xà, Huyền Vũ còn được gọi là Nguyên Vũ. Trong dự đoán lục hào, lục thần là một căn cứ dùng để phán đoán nguyên nhân và tính chất của sự vật, không tham gia vào phán đoán cát hung. Bản thân lục thần cũng có thuộc tính ngũ hành, Thanh Long thuộc mộc, Chu Tước thuộc hỏa, Câu Trần và Đằng Xà thuộc thổ, Bạch Hổ thuộc kim, Huyền Vũ thuộc thủy, tuy nhiên giữa chúng không cần xem sinh khắc. Lục thần được phối theo thiên can của ngày được dự đoán, theo thứ tự từ hào sơ đến hào 6. Phương pháp cụ thể như sau: Nếu như thiên can của ngày được dự đoán là Giáp hoặc Ất, Giáp Ất thuộc mộc, Thanh Long cũng thuộc mộc, phối Thanh Long từ hào sơ, theo thứ tự hào 2 phối Chu Tước, hào 3 phối Câu Trần, hào 4 phối Đằng Xà, hào 5 phối Bạch Hổ, hào 6 phối Huyền Vũ. Nếu là ngày Bính Đinh dự đoán thì khởi Chu Tước từ hào sơ, ngày Mậu dự đoán thì khởi Câu Trần từ hào sơ, ngày Kỷ thì khởi Đằng Xà từ hào sơ, ngày Canh Tân thì khởi Bạch Hổ từ hào sơ, ngày Nhâm quý thì khởi Huyền Vũ từ hào sơ.

64

Lục thần cũng thường được viết tắt, Thanh Long là Long, Chu Tước là Tước, Câu Trần là Câu, Đằng Xà là Xà, Bạch Hổ là Hổ, Huyền Vũ là Vũ. @@@@@@@@@@@@@@

Cổ phiếu đã có lịch sử hàng trăm năm. Cùng với sự phát triển của xã hội, người ta ngày càng nhận thức rõ hơn về cổ phiếu. Nó đã trở thành một đề tài thường xuyên được bàn luận trong đời sống, các nhà đầu tư cũng đã xuất hiện ở mọi tầng lớp trong xã hội. Có người thì dựa vào kỹ thuật phân tích để nghiên cứu quy luật cổ phiếu, có người thì mua bán cổ phiếu dựa vào cảm giác, có người thì không chủ trương mua bán cổ phiếu hùa theo những người khác. Sau một vài năm, số người kiếm được tiền chỉ là thiểu số, phần lớn là bị thua lỗ mà chấm dứt mua bán. Do đó, mọi người đều mong muốn có một phương pháp có thể giúp nắm bắt được sự biến động của cổ phiếu, qua đó giúp mình mua bán cổ phiếu có hiệu quả hơn. Vậy thì phương pháp dự đoán của cổ nhân truyền lại có thể dùng cho dự đoán cổ phiếu hay không? Dự đoán lục hào được phát minh dựa trên quy luật vận động của vũ trụ. Cổ phiếu cũng là kết quả của vận động vũ trụ, không thể tách khỏi vũ trụ mà tồn tại độc lập. Do đó, sử dụng phương pháp lục hào hoàn toàn có thể dự đoán cổ phiếu. Vào năm 2002, tôi đã hướng dẫn cho ông Ken Morita mua bán cổ phiếu, sử dụng 35 triệu yên làm vốn kinh doanh. Sau nửa năm, ngoài tiền vốn thu hồi, ông ấy còn kiếm được 140 triệu yên. Lúc đó tôi hoàn toàn sử dụng phương pháp lục hào để dự đoán cổ phiếu, hoàn toàn không có kỹ

65

thuật phân tích, cũng không xem thông tin hiệu quả kinh doanh,… Theo cách đó, tôi đã nghiệm chứng được tính khả thi của phương pháp này. Có điều là cổ phiếu thay đổi trong nháy mắt, muốn dự đoán không sai chút nào thì vẫn có sự khó khăn nhất định. Có khi dự đoán sự biến động của cổ phiếu trong dài hạn thì quái tượng lại phản ánh sự biến động trong tương lai gần, có khi dự đoán sự biến động trong tương lai gần thì quái tượng lại phản ánh sự biến động trong dài hạn. Do đó, khi phân tích và phán đoán quẻ, chúng ta cần phân biệt được những tình huống này. Một điểm nữa là nếu như tham gia mua bán cổ phiếu thì trước tiên cần phải xem vận khí của bản thân ra sao. Chỉ khi vận khí tốt đẹp và trình độ dự đoán cao thì mới có thể nắm chắc phần thắng. Khi dự đoán cổ phiếu, công việc gieo quẻ cũng rất quan trọng. Nếu như thông tin trích xuất không đúng, cho dù trình độ đoán quẻ có cao như thế nào thì cũng không thể dự đoán chính xác. Do đó, khi gieo quẻ dự đoán cổ phiếu thì không được tham lam, không được đồng thời nghĩ đến nhiều cổ phiếu. Nếu không thì quẻ gieo ra không biết là phản ánh về cổ phiếu nào.

CÁCH CHỌN DỤNG THẦN TRONG DỰ ĐOÁN CỔ PHIẾU Sự biến động của cổ phiếu chủ yếu là sự biến động về mức giá, vì vậy lấy hào Thê Tài làm Dụng thần. Sự mạnh yếu của Thê Tài là căn cứ cơ bản để phán đoán sự biến động giá cả của cổ phiếu. Tử Tôn là Nguyên thần của hào Tài, là lượng giao dịch và là nhân tố có lợi cho cổ phiếu tăng trưởng. Phụ Mẫu là Cừu thần, vừa có ý nghĩa thông tin và tình báo, vừa là tin tức thời sự và tin đồn bất lợi cho cổ phiếu. Quan Quỷ vốn có ý nghĩa quản lý khống chế, vì vậy Quan Quỷ là nhà cái và là đại cổ đông thao túng cổ phiếu. Quan Quỷ có tính hai mặt, nó vừa có thể chế phục Kỵ thần tốt cho Dụng thần, vừa có thể tiết khí Dụng thần, đây cũng chính là hành vi nhà cái khiến cổ phiếu lúc thì tăng mạnh, lúc thì giảm mạnh. Huynh Đệ khắc Tài, là nhân tố bất lợi cho cổ phiếu.

66

NHỮNG DỰ ĐOÁN CỔ PHIẾU CƠ BẢN Dự đoán sự biến động giá cả của cổ phiếu hiện tại, Thê Tài vượng tướng là thông tin cổ phiếu tăng giá, hưu tù bị khắc là thông tin cổ phiếu xuống giá. Khi dự đoán sự biến động giá cổ phiếu trong dài hạn, phải xem đồng thời hào Tử Tôn. Thê Tài vượng tướng nhưng Tử Tôn hưu tù Không Phá, đây chính là thông tin hiện nay mức giá cao, cổ phiếu đã lên đến đỉnh, rất khó lên cao nữa. Thê Tài không vượng, Tử Tôn vượng tướng hoặc động hóa hồi đầu sinh, hiện nay mức giá tuy thấp nhưng sau này sẽ có cơ hội tăng lên, tăng cao. Thê Tài vượng, động mà hóa tiến hoặc Thê Tài có khí, Tử Tôn động mà hóa Tiến thần, đây chính là thông tin cổ phiếu dần dần tăng giá. Thê Tài tuy vượng nhưng động hóa thoái hoặc Tử Tôn động mà hóa Không, hóa phá, hóa thoái đều là thông tin cổ phiếu sẽ xuống giá. Thê Tài vượng hoặc có khí, Tử Tôn vượng mà bất Không bất Phá phát động, hào Huynh Đệ đồng thời phát động, cổ phiếu dài hạn có lợi thế. Nếu Thê Tài vượng tướng, Tử Tôn Huynh Đệ mặc dù đồng thời phát động nhưng Tử Tôn Không Phá, cổ phiếu quanh quẩn một chỗ, sẽ không tăng lên. Thê Tài hưu tù, Huynh Đệ phát động, cổ phiếu nhất định sẽ xuống giá. Thê Tài vượng tướng nhưng Huynh Đệ động hóa Tiến thần, hiện nay mức giá tuy tốt nhưng sau này sẽ từ từ xuống giá. Thê Tài hưu tù, Phụ Mẫu và Huynh Đệ đồng thời phát động, cổ phiếu mất giá trong thời gian dài. Thê Tài hưu tù, Quan Quỷ độc phát hoặc Thê Tài phát động hóa Quan Quỷ, cổ phiếu xuống giá. Phụ Mẫu cùng Chu Tước phát động, trong quẻ lại có nhân tố bất lợi cho Thê Tài thì sẽ có thông tin khiến cổ phiếu xuống giá, nếu là nhân tố lợi cho Thê Tài thì sẽ có thông tin khiến cổ phiếu tăng giá.

67

Thê Tài vượng tướng, Huynh Đệ phát động nhưng Quan Quỷ động mà chế Huynh Đệ, đây là nhà cái cố ý khiến cổ phiếu tăng giá. Quẻ có phục ngâm, Thê Tài bị hợp nhập Mộ, cổ phiếu rất khó tăng giá; quẻ có phản ngâm, cổ phiếu lên xuống bất định. Thê Tài Huynh Đệ mạnh yếu tương đương, đồng thời hóa thoái hoặc nhập Mộ, đây chính là thông tin giá cổ phiếu bất động. Dự đoán cổ phiếu trong dài hạn, Dụng thần, Nguyên thần phục tàng vượng hoặc có khí, chỉ cần Kỵ thần bất động, xung Phi, xung Phục, khi Phục thần xuất hiện thì cổ phiếu sẽ tăng. -> Trên đây là những quy luật cơ bản khi dự đoán cổ phiếu. Chỉ khi tự mình tiến hành dự đoán hàng loạt trường hợp thì chúng ta mới có thể nắm bắt được sự biến hóa vi diệu của lục hào dự đoán cổ phiếu. Khi dự đoán không nên nhận định rập khuôn một cách máy móc.

VÍ DỤ VỀ DỰ ĐOÁN CỔ PHIẾU Ví dụ 1: Ngày Giáp Tuất tháng Thân, đoán một cổ phiếu tăng hay giảm giá ra sao? Được Hỏa Sơn Lữ biến Ly Vi Hỏa.

Phán đoán: Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Trong quẻ Thê Tài lưỡng hiện, đều là Không Vong, lấy hào Ứng Thê Tài Dậu kim làm Dụng thần. Dụng thần được Nguyệt kiến trợ giúp, Nhật đến sinh là vượng tướng. Thê Tài lưỡng hiện, Nguyên thần lưỡng hiện, Tử Tôn Thìn thổ phát động lại đến sinh, có hiềm quá vượng. Thê Tài quá vượng nhất định sẽ xuống giá. Nhưng mà Thê Tài Dậu kim Không Vong, Tử Tôn Thìn thổ lại hóa hồi đầu khắc, chưa đến lúc xuống giá. Tháng sau là tháng Dậu, Dụng thần xuất Không, hào biến Mão mộc bị xung mất nên không thể

68

khắc chế Tử Tôn Thìn thổ, Dụng thần càng vượng tướng, chắc chắn sẽ xuống giá. Phản hồi: Quả nhiên tại tháng Dậu xuống giá.

Ví dụ 2: Ngày Ất Sửu tháng Ngọ, nữ được bạn bè giới thiệu một cổ phiếu, đoán xem có thể tăng giá hay không? Được Thiên Lôi Vô Vọng biến Hỏa Lôi Phệ Hạp.

Phán đoán: Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Trong quẻ Thê Tài lưỡng hiện, lấy Thê Tài Tuất thổ Không Vong làm Dụng thần. Dụng thần được Nguyệt sinh Nhật phù là vượng tướng, nhưng không nên Quan Quỷ Thân kim độc phát, cổ phiếu này không tăng mà trái lại xuống giá. Quan Quỷ tại hào 5 là nhà cái, là bởi vì vấn đề nhà cái mà xuống giá. Lúc đó, cô ấy cho là phán đoán không đúng, bởi vì người giới thiệu cổ phiếu cho cô ấy chính là nhà cái, họ nói rằng sau khi kéo cổ phiếu lên cao sẽ bảo cô ấy sớm bán tháo, cổ phiếu này chắc chắn có lãi. Phản hồi: Cô ấy không nghe lời khuyên, sau khi mua cổ phiếu không lâu thì nhà cái bị bắt vào tù vì phạm pháp, cổ phiếu giảm giá mạnh.

Ví dụ 3: Ngày Quý Sửu tháng Hợi, đoán cổ phiếu Liên Thông Trung Quốc (China Unicom), được Trạch Thiên Quải biến Thủy Thiên Nhu.

69

Phán đoán: Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Trong quẻ Thê Tài lưỡng hiện, lấy hào Thê Tài Hợi thủy phát động làm Dụng thần. Dụng thần được Nguyệt trợ giúp Nhật thần đến khắc, suy vượng cân bằng, nhưng độc phát hóa hồi đầu sinh, vì vậy tương đối có tiềm lực. Sắp tới thì nên xem ngày hôm sau, bởi vì Dụng thần phát động, ngày hôm sau là ngày Dần, vừa đúng là ứng kỳ. Phản hồi: Trên thực tế, giá trong ngày dự đoán là 8.89 tệ, ngày hôm sau là Giáp Dần tăng đến 8.91 tệ, hai mươi ngày sau thì giá tăng đến 10.13 tệ. @@@@@@@@@@@@

THẦN SÁT TRONG DỰ ĐOÁN LỤC HÀO Thông tin Thần Sát hay tinh sát rất có giá trị sử dụng trong việc phân tích chi tiết quái tượng, phạm vi ứng dụng của nó rất rộng rãi, nhưng từ xưa đã có quá nhiều Tinh Sát, có hàng trăm loại cát tinh thần sát khác nhau. Qua thực tiễn tích lũy trong thời gian dài, tôi đã tổng kết ra 13 loại Tinh Sát có tần suất ứng dụng cao như sau: Mục lục • • • • • • • • • • •

Quý Nhân Lộc Thần Dương Nhẫn (Dương Nhận) Văn Xương Dịch Mã Đào Hoa Tương Tinh Kiếp Sát Hoa Cái Mưu Tinh Thiên Y 70

• • • •

Thiên Hỷ Tai Sát Ca Quyết Ghi Nhớ Ví Dụ Toàn Diện

Quý Nhân Là Tinh Sát ngụ ý về tương quan giữa người với người… Lấy Can ngày trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, gặp ngày Giáp và Mậu thì sao Quý Nhân tại Sửu và Mùi; gặp ngày Ất và Kỷ thì sao Quý Nhân tại Tý và Thân; gặp ngày Bính và Đinh thì sao Quý Nhân tại Hợi và Dậu; gặp ngày Canh và Tân thì sao Quý Nhân tại Ngọ và Dần; gặp ngày Nhâm và Quý thì sao Quý Nhân tại Mão và Tị. Ngày xưa có một ca quyết có thể giúp ghi nhớ: Giáp Mậu tịnh ngưu dương. Ất Kỷ thử hầu hương. Bính Đinh trư kê vị. Nhâm Quý thố xà tàng. Canh Tân phùng mã hổ. Thử thị Quý Nhân phương.

Lộc Thần Là Tinh Sát ngụ ý về tài lộc nhiều hay ít hoặc có hay không… Lấy Can ngày trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, gặp ngày Giáp thì Lộc tại Dần, gặp ngày Ất thì Lộc tại Mão, gặp ngày Bính và ngày Mậu thì Lộc tại Tị, gặp ngày Đinh và ngày Kỷ thì Lộc tại Ngọ, gặp ngày Canh thì Lộc tại Thân, gặp ngày Tân thì Lộc tại Dậu, gặp ngày Nhâm thì Lộc tại Hợi, gặp ngày Quý thì Lộc tại Tý.

Dương Nhẫn (Dương Nhận) Là Tinh Sát ngụ ý về công tác, vật kiện (đồ vật, vật phẩm)… Lấy Can ngày trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, gặp ngày Giáp thì Nhẫn tại Mão, gặp ngày Ất thì Nhẫn tại Dần, gặp ngày Bính và ngày Mậu thì Nhẫn tại Ngọ, gặp ngày Đinh và ngày Kỷ thì Nhẫn tại Tị, gặp ngày Canh thì Nhẫn tại Dậu, gặp ngày Tân thì Nhẫn tại Thân, gặp ngày Nhâm thì Nhẫn tại Tý, gặp ngày Quý thì Nhẫn tại Hợi. 71

Văn Xương Là Tinh Sát ngụ ý về năng lực, trình độ, trù hoạch… Lấy Can ngày trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, gặp ngày Giáp thì Văn Xương tại Tị, gặp ngày Ất thì Văn Xương tại Ngọ, gặp ngày Bính và ngày Mậu thì Văn Xương tại Thân, gặp ngày Đinh và ngày Kỷ thì Văn Xương tại Dậu, gặp ngày Canh thì Văn Xương tại Hợi, gặp ngày Tân thì Văn Xương tại Tý, gặp ngày Nhâm thì Văn Xương tại Dần, gặp ngày Quý thì Văn Xương tại Mão.

Dịch Mã Là Tinh Sát ngụ ý về bôn ba, khoảng cách xa gần, tính chất mềm cứng… Lấy Chi ngày trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, gặp ngày Thân Tý Thìn thì Mã tinh tại Dần, gặp ngày Tị Dậu Sửu thì Mã tinh tại Hợi, gặp ngày Dần Ngọ Tuất thì Mã tinh tại Thân, gặp ngày Hợi Mão Mùi thì Mã tinh tại Tị.

Đào Hoa Là Tinh Sát ngụ ý về phụ nữ, tình cảm, trang hoàng, thể hiện bề ngoài, trình độ học vấn, vinh hiển… Lấy Chi ngày trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, gặp ngày Thân Tý Thìn thì Đào Hoa tại Dậu, gặp ngày Tị Dậu Sửu thì Đào Hoa tại Ngọ, gặp ngày Dần Ngọ Tuất thì Đào Hoa tại Mão, gặp ngày Hợi Mão Mùi thì Đào Hoa tại Tý.

Tương Tinh Là Tinh Sát ngụ ý về trình độ, biên độ, hiệu suất… Lấy Chi ngày trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, gặp ngày Thân Tý Thìn thì Tương Tinh tại Tý, gặp ngày Tị Dậu Sửu thì Tương Tinh tại Dậu, gặp ngày Dần Ngọ Tuất thì Tương Tinh tại Ngọ, gặp ngày Hợi Mão Mùi thì Tương Tinh tại Hợi.

Kiếp Sát Là Tinh Sát ngụ ý về cửa ải khó khăn, trở ngại, số kiếp, vấn đề… Lấy Chi ngày trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, gặp ngày Thân Tý Thìn thì Kiếp Sát tại Tị, gặp ngày Tị Dậu Sửu thì Kiếp Sát tại Dần, gặp ngày Dần Ngọ Tuất thì Kiếp Sát tại Hợi, gặp ngày Hợi Mão Mùi thì Kiếp Sát tại Thân.

72

Hoa Cái Là Tinh Sát ngụ ý vô nại (đành chịu, không biết làm sao), bỉnh di (giữ đạo thường tự nhiên), quái tích (quái lạ, khác thường)… Lấy Chi ngày trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, gặp ngày Thân Tý Thìn thì Hoa Cái tại Thìn, gặp ngày Tị Dậu Sửu thì Hoa Cái tại Sửu, gặp ngày Dần Ngọ Tuất thì Hoa Cái tại Tuất, gặp ngày Hợi Mão Mùi thì Hoa Cái tại Mùi.

Mưu Tinh Là Tinh Sát ngụ ý về kế hoạch, mưu đồ, chủ động trù hoạch… Lấy Chi ngày trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, gặp ngày Thân Tý Thìn thì Mưu Tinh tại Tuất, gặp ngày Tị Dậu Sửu thì Mưu Tinh tại Mùi, gặp ngày Dần Ngọ Tuất thì Mưu Tinh tại Thìn, gặp ngày Hợi Mão Mùi thì Mưu Tinh tại Sửu. Mưu Tinh là một Tinh Sát có tính ứng dụng rất cao, trong dự đoán thường ứng nghiệm, bởi vì trong sách cổ không ghi lại sao này nên tôi căn cứ theo chức năng của nó gọi là “Mưu Tinh”.

Thiên Y Là Tinh Sát ngụ ý về bệnh tật, y dược… Lấy Chi tháng trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, Chi đứng trước Chi tháng gieo quẻ chính là sao Thiên Y. Như tháng Mão gieo quẻ, Dần chính là Thiên Y; tháng Tuất gieo quẻ, Dậu chính là Thiên Y, cứ như vậy suy ra là được.

Thiên Hỷ Là Tinh Sát ngụ ý gặp hung hóa cát và gặp hỷ sự… Lấy mùa gieo quẻ làm thước đo, mùa xuân Thiên Hỷ tại Tuất, mùa hè Thiên Hỷ tại Sửu, mùa thu Thiên Hỷ tại Thìn, mùa đông Thiên Hỷ tại Mùi.

Tai Sát Là Tinh Sát ngụ ý cửa ải khó khăn, trở ngại, số kiếp, vấn đề…, nhưng có điểm khác biệt so với Kiếp Sát là Tai Sát chỉ chuyên báo hiệu vấn đề hoặc trở ngại sắp xảy ra trong tương lai gần. Tai Sát lấy Chi ngày trong tổ hợp ngày tháng làm thước đo, gặp ngày Thân Tý Thìn thì Tai Sát tại Ngọ, gặp ngày Tị Dậu Sửu thì Tai Sát tại Mão, gặp ngày Dần Ngọ Tuất thì Tai Sát tại Tý, gặp ngày Hợi Mão Mùi thì Tai Sát tại Dậu. Trên đây trích từ “Lục hào cổ bốc giảng nghĩa” của Chu Thần Bân tiên sinh. Tuy là Chu tiên sinh chỉ mới giới thiệu cho chúng ta 13 sao trong rất nhiều thần sát, có vẻ như không nhiều, nhưng làm thế nào để

73

ghi nhớ chính xác được 13 thần sát này trong thời gian ngắn nhất? Ca quyết Quý Nhân thì chúng ta đã biết rõ, những thần sát khác mặc dù đã được giải thích rõ ràng nhưng vẫn cần tìm phương pháp ghi nhớ, nếu vị bằng hữu nào có thể tìm ra phương pháp thuận tiện để nhớ từng thần sát một thì cho tôi gửi sự kính phục đến vị đó.

Ca Quyết Ghi Nhớ Dưới đây giới thiệu một ca quyết nhỏ mà tôi đã tổng kết, hy vọng sẽ giúp ích cho quý vị. 1. Đối với Quý Nhân, tôi đoán là các bạn có thể thuộc lòng ca quyết nên không thuyết minh. Đối với Thiên Y và Thiên Hỷ, chúng ta vừa nhìn đã hiểu rõ, hơn nữa cũng không dễ lẫn lộn với các thần sát khác, vì vậy chỉ cần dùng một phút là các bạn đã có thể giải quyết vấn đề ghi nhớ 3 thần sát này. 2. Đối với 10 thần sát còn lại, có thể chia thành hai nhóm. Với nhóm lấy Chi ngày làm thước đo, nhóm này chính là nói đến bốn tổ hợp “Thân Tý Thìn”, “Dần Ngọ Tuất”, “Tị Dậu Sửu” “Hợi Mão Mùi” . Mặc dù chúng ta đã quen thuộc bốn tổ hợp này, nhưng chúng được dùng để làm thước đo cho nhiều thần sát, nếu không cẩn thận thì có thể nhớ lộn. Xin mời xem ca quyết mà tôi đã tổng kết: Tiền tiến Đào Hoa diễm. Tiền xung Dịch Mã phùng. Gian đồng Tương Tinh vị. Tai Sát vi trung xung. Mưu Tinh xung hậu vị. Hoa Cái dữ hậu đồng. Kiếp Sát hà phương pháp? Thân Tị Dần Hợi hành. Với tám câu khẩu quyết này thì chúng ta có thể thoải mái ghi nhớ 7 thần sát lấy Chi ngày làm thước đo. Dưới đây tôi có giải thích từng câu một để giúp mọi người dễ nhớ hơn.

74

Câu 1: Tiền tiến Đào Hoa diễm. Chữ “diễm” sau cùng chỉ góp thêm để gieo vần cho khẩu quyết mà thôi. Ý của câu này nói là trong tổ hợp Chi ngày, Tiến thần của Chi ngày đầu tiên chính là Đào Hoa. Ví dụ như ngày Ất Mùi, Mùi liên quan đến tổ hợp Hợi Mão Mùi, trong tổ hợp này thì Chi ngày đầu tiên là Hợi, Tiến thần của Hợi là Tý, vì vậy ngày Ất Mùi Đào Hoa tại Tý. Câu 2: Tiền xung Dịch Mã phùng. Chi tương xung với Chi đầu tiên của tổ hợp Chi ngày chính là Dịch Mã. Ví dụ: Ngày Bính Thìn, tổ hợp Địa Chi tương quan với Thìn là Thân Tý Thìn, Chi ngày đầu tiên là Thân, tương xung với Thân là Dần, vì vậy ngày Bính Thìn Dịch Mã tại Dần. Câu 3, 4: Gian đồng Tương Tinh vị. Tai Sát vi trung xung. Tương đồng với Địa Chi giữa trong tổ hợp Địa Chi chính là Tương Tinh, tương xung với Địa Chi giữa trong tổ hợp Địa Chi chính là Tai Sát. Ví dụ: Ngày Quý Sửu, tổ hợp Địa Chi tương quan với Sửu là Tị Dậu Sửu, Địa Chi ở giữa là Dậu, Dậu chính là Tương Tinh; tương xung với Dậu là Mão, Mão chính là Tai Sát. Vì vậy, ngày Quý Sửu thì Dậu là Tương Tinh, Mão là Tai Sát. Câu 5, 6: Mưu Tinh xung hậu vị. Hoa Cái dữ hậu đồng. Tương xung với Địa Chi cuối cùng trong tổ hợp Địa Chi là Mưu Tinh, tương đồng với Địa Chi cuối cùng trong tổ hợp Địa Chi là Hoa Cái. Ví dụ: Ngày Giáp Ngọ, tổ hợp Địa Chi tương quan với Ngọ là Dần Ngọ Tuất, Địa Chi cuối cùng là Tuất, tương xung với Tuất là Thìn, Thìn là Mưu Tinh; tương đồng với Địa Chi cuối cùng là Tuất, Tuất là Hoa Cái. Vì vậy, ngày Giáp Ngọ, Thìn là Mưu Tinh, Tuất là Hoa Cái. Câu 7, 8: Kiếp Sát hà phương pháp? Thân Tị Dần Hợi hành. Cách nhớ Kiếp Sát khác với 6 thần sát ở trên, nhớ được thứ tự “Thân Tị Dần Hợi hành” thì sẽ giải quyết dễ dàng. Ngày Thân Tý Thìn Kiếp Sát tại Tị, ngày Tị Dậu Sửu Kiếp Sát tại Dần, ngày Dần Ngọ Tuất Kiếp Sát tại Hợi, ngày Hợi Mão Mùi Kiếp Sát tại Thân. Nhớ lần lượt “Thân Tị Dần Hợi”, sau đó dựa vào thứ tự này tra ra là được. 3. Với các thần sát lấy Can ngày làm thước đo, có 4 câu khẩu quyết: Can Chi đồng vị Can Lộc tại. Can Chi dịch vị Dương Nhẫn phùng. Nhược vấn Văn Xương hà phương pháp.

75

Đông Nam Tây Bắc yếu thuận hành. Hai câu đầu: Can Chi đồng vị Can Lộc tại. Can Chi dịch vị Dương Nhẫn phùng. Chúng ta đã biết kiến thức căn bản “Đông phương Giáp Ất Dần mộc mộc, Nam phương Bính Đinh tứ ngũ hỏa…”, cái gọi là “Can Chi đồng vị” chính là Giáp đối Dần, Ất đối Mão, cũng có thể lý giải từ thuộc tính âm dương của Thiên Can, Địa Chi. Vì vậy, Can Chi đồng vị (âm dương tương đồng) chính là Lộc, Can Chi dịch vị (âm dương tương đối – đối lập nhau) chính là Dương Nhẫn. Ví dụ: Ngày Giáp Tý, Giáp đối ứng với Dần, âm dương tương dị là Mão, vì vậy ngày Giáp Tý Dần là Lộc, Mão là Dương Nhẫn. Mậu và Kỷ là hai Thiên Can ngoại lệ, Mậu và Bính cùng đối ứng Tị, Đinh và Kỷ cùng đối ứng Ngọ, đây là Lộc; ngược lại, Mậu và Bính đối ứng Ngọ, Đinh và Kỷ cùng đối ứng Tị, đây chính là Dương Nhẫn. Có thể nói rằng, Mậu Kỷ đi chung với Bính Đinh đã gây thêm rắc rối. Hai câu cuối: Nhược vấn Văn Xương hà phương pháp. Đông Nam Tây Bắc yếu thuận hành. Phương pháp tìm Văn Xương cũng là nhờ vào sự sắp xếp Thiên Can Địa Chi ở bốn phương vị Đông Nam Tây Bắc, thuận theo chiều quay của kim đồng hồ. Cốt lõi là: Vừa đối ứng vừa quay, trước quay sau đối ứng. Ví dụ như ngày Giáp Tý, Can ngày là Giáp, Giáp tại phương Đông, trước quay, quay xuống là hướng Nam. Trước quay sau đối ứng, Giáp đối ứng Tị, vì vậy ngày Giáp Tý Văn Xương tại Tị.

Ví Dụ Toàn Diện Cuối cùng xin đưa ra một ví dụ toàn diện: Can Chi: Ngày Bính Dần tháng Ngọ. Quý Nhân:

Bính Đinh trư kê vị, Dậu và Hợi là Quý Nhân.

Thiên Hỷ: Hỷ.

Tháng Ngọ là mùa hạ, xuân Tuất hạ Sửu, Sửu là Thiên

Thiên Y:

Địa Chi trước Nguyệt kiến là Tị, Tị là Thiên Y.

Đào Hoa:

Tiền tiến Đào Hoa diễm. Mão là Đào Hoa.

Dịch Mã:

Tiền xung Dịch Mã phùng. Thân là Dịch Mã.

76

Tương Tinh:

Gian đồng Tương Tinh vị. Ngọ là Tương Tinh.

Tai Sát:

Tai Sát vi trung xung. Tý là Tai Sát.

Mưu Tinh:

Mưu Tinh xung hậu vị. Thìn là Mưu Tinh.

Hoa Cái:

Hoa Cái dữ hậu đồng. Tuất là Hoa Cái.

Kiếp Sát:

Thân Tị Dần Hợi hành. Hợi là Kiếp Sát.

Lộc:

Can Chi đồng vị Can Lộc tại. Tị là Lộc.

Dương Nhẫn: Can Chi dịch vị Dương Nhẫn phùng. Ngọ là Dương Nhẫn. Văn Xương: Xương.

Đông Nam Tây Bắc yếu thuận hành. Thân là Văn

@@@@@@@@@@@@

12 ĐỊA CHI TRONG DỰ ĐOÁN LỤC HÀO Thập nhị địa chi (12 địa chi) Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Âm dương của thập nhị địa chi Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là chi dương. Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi là chi âm. Tức là, từ Tý đến Hợi, số lẻ là chi dương, số chẵn là chi âm.

Thập nhị địa chi phối ngũ hành Dần Mão thuộc mộc, Dần là dương mộc, Mão là âm mộc; Tị Ngọ thuộc hỏa, Ngọ là dương hỏa, Tị là âm hỏa; Thân Dậu thuộc kim, Thân là dương kim, Dậu là âm kim; Tý Hợi thuộc thủy, Tý là dương thủy, Hợi là âm thủy;

77

Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc thổ: Thìn Tuất là dương thổ, Sửu Mùi là âm thổ; Thìn Sửu là thấp thổ hối hỏa sinh kim[1], Tuất Mùi là táo thổ thúy kim[2] (phải sử dụng biến thông, xem ở phần liên quan phía sau).

Sinh khắc của thập nhị địa chi Tương khắc: Hợi Tý thủy khắc Tị Ngọ hỏa, Tị Ngọ hỏa khắc Thân Dậu kim, Thân Dậu kim khắc Dần Mão mộc, Dần Mão mộc khắc Thìn Tuất Sửu Mùi thổ, Thìn Tuất Sửu Mùi thổ khắc Tý thủy, Mùi Tuất thổ khắc Hợi thủy. Tương sinh: Hợi Tý thủy sinh Dần Mão mộc, Dần Mão mộc sinh Tị Ngọ hỏa, Tị Ngọ hỏa sinh Thìn Tuất Sửu Mùi thổ, Thìn Sửu thổ sinh Thân Dậu kim, Thân Dậu kim sinh Hợi Tý thủy. Cái bị khắc thì giảm lực, như Hợi thủy khắc Tị hỏa, Tị hỏa giảm lực. Cái được sinh thì tăng lực, như Dần mộc sinh Ngọ hỏa, Ngọ hỏa tăng lực và Dần mộc giảm lực. Ghi chú: Đồng tính sinh khắc lực đại, dị tính sinh khắc lực tiểu. Tiết: Ảnh hưởng của cái được sinh đối với chủ sinh là tiết. Như quẻ Lôi Thiên Đại Tráng, hào 4 Ngọ hỏa trì Thế, bị hào 3 Thìn thổ tiết hào Thế Ngọ hỏa giảm lực. Hao: Ảnh hưởng của cái bị khắc đối với chủ khắc là hao. Như quẻ Lôi Thiên Đại Tráng, hào 4 Ngọ hỏa trì Thế, bị hào 5 Thân kim hao hào Thế Ngọ hỏa giảm lực.

Thập nhị chi phối phương vị Tý thủy phương Bắc, Dần mộc Sửu thổ phương Đông Bắc, Mão mộc phương Đông, Thìn thổ Tị hỏa phương Đông Nam, Ngọ hỏa phương Nam, Mùi thổ Thân kim phương Tây Nam, Dậu kim phương Tây, Tuất thổ Hợi thủy phương Tây Bắc.

Thập nhị chi phối bốn mùa Dần Mão Thìn là xuân, Tị Ngọ Mùi là hạ, Thân Dậu Tuất là thu, Hợi Tý Sửu là đông.

78

Thập nhị chi phối tạng phủ Dần là mật, Mão là gan, Tị là tim, Ngọ ruột non, Tuất Thìn dạ dày, Sửu Mùi lá lách, Thân ruột già, Dậu phổi, Hợi thận, Tý bàng quang.

Thập nhị địa chi và Nguyệt kiến Trong lịch pháp cổ đại, mỗi năm Thái Tuế thay đổi một lần, còn Nguyệt kiến thì mỗi tháng thay đổi một lần. Nguyệt kiến lấy 12 tiết trong 24 tiết khí làm ngày thay đổi. Lập Xuân tháng giêng tiết kiến Dần[3]; Kinh Trập tháng 2 tiết kiến Mão. Thanh Minh tháng 3 tiết kiến Thìn; Lập Hạ tháng 4 tiết kiến Tị. Mang Chủng tháng 5 tiết kiến Ngọ; Tiểu Thử tháng 6 tiết kiến Mùi. Lập Thu tháng 7 tiết kiến Thân; Bạch Lộ tháng 8 tiết kiến Dậu. Hàn Lộ tháng 9 tiết kiến Tuất; Lập Đông tháng 10 tiết kiến Hợi. Đại Tuyết tháng 11 tiết kiến Tý; Tiểu Hàn tháng 12 tiết kiến Sửu.

Thập nhị địa chi và giờ

Ghi chú: Bảng trên là giờ Bắc Kinh, trong dự đoán thực tế phải lấy giờ mặt trời thực ở bản địa mới đúng[4].

Thập nhị địa chi và con vật Tý chuột, Sửu trâu, Dần hổ, Mão thỏ, Thìn rồng, Tị rắn, Ngọ ngựa, Mùi dê, Thân khỉ, Dậu gà, Tuất chó, Hợi lợn.

79

Thập nhị địa chi tàng tượng (tượng ẩn giấu trong 12 địa chi) – phần này thiên về Bát Tự Tý Thể hiện sông hồ biển, lạnh lẽo, ưu sầu, Tý chính là bệnh tật, Tý kết hôn nhiều lần, trong người tất có bệnh, phụ nữ bệnh phụ khoa, nam giới tuyến tiền liệt. Thể hiện mất trộm, ám muội, thận, máu, màu đen, mắt to, sắc dục, nghề nghiệp có tính kỹ thuật, văn kiện cơ mật, chìa khóa, ngành nghề mang tính lưu động, không có chủ kiến, thích gió chiều nào theo chiều nấy, nhạy bén; thủy phiếm lạm (tràn) thì người xảo quyệt, hoặc tình cảm lai láng. Sửu Ngành nghề tài chính, kế toán, thu chi, chứng khoán, bảo hiểm,…; chứng từ, hóa đơn, phải thiết thực mà lặng lẽ, là nhân vật thủ lĩnh nhưng không thích quyền lực. Sửu thổ cũng chỉ oán phụ[5], oán thù, chửi rủa. Tài nguyên khoáng sản, bãi đỗ xe, tầng hầm, ngân hàng. Chùa, miếu, am, nhà thờ. Kênh rạch, hố. Vóc dáng không cao, xấu xí, tóc thưa. Dần Quan quý, gan dạ, có học thức, thiết bị thông tin, sản phẩm công nghệ cao. Dần gặp Dần, chủ biết bao biện, biết gây áp lực, thích hợp làm chính khách. Cây to, vật dụng trong nhà (chủ yếu chỉ đồ gỗ), văn phòng phẩm, văn nghệ, văn thư, nhịp nhanh, tướng thanh[6], mật, tay, chữ Dần (寅), trán rộng, phần trước rộng, có râu. Nữ là Dần thì có nhiều lông tơ. Trường học, lãnh đạo, bộ lông thú, tủ quần áo, Dần còn thể hiện ngụy trang. Mão Cây mạ, hoa cỏ, cửa ngõ, cửa sổ, gậy gỗ, chạy, chấn động, áng mây, cái kẹp, mặt dài, mặt hình trái xoan, Tý Ngọ là hình tròn, Dậu và Mão đều là hình trái xoan. Mão là cái kéo. Phương tiện giao thông, gặp Không thể hiện máy bay, Internet, phong thư, nhắn tin. Mão mộc hiếu chiến biện luận, hôn nhân thường không hòa thuận; nguyên nhân là do “Khôn an Chấn Sát”. Thìn 80

Xi măng, hồ chứa nước, nhà vệ sinh, tuyết địa, sân trượt tuyết, tủ lạnh. Nếu chi ngày là Thìn thì người yêu là người lạnh lùng, tọa chi là Thìn nghiêm túc. Tranh đấu, lao ngục, giếng, phần mộ, chùa miếu, tỳ vị. Thầy thuốc, thầy pháp, bốc, tướng…, suy rộng là người hành pháp. Tị Ánh đèn, cồn, dầu, gas. Người trong bát tự có hai Tị thì thế nào cũng theo nghề cồn, gas. Máy vi tính, điện thoại di động. Khi địa chi trong bát tự xuất hiện một Tị và một Thân, hoặc một Tị và một Hợi, thường xuyên mất điện thoại di động, hoặc mất sản phẩm điện tử. Máy biến thế, thông tin, nghệ thuật, văn học, bật lửa, miệng to, người có Tị hỏa là chi ngày thì miệng càng rộng, ba Tị hỏa đặc biệt đặc biệt rộng, xảo quyệt, khoang miệng. Tân gặp Tị đều là bệnh răng. Còn thể hiện máu, thông tin, hoảng sợ, đa nghi, mơ nhiều, cũng chủ cuốn hút, sáng suốt và nghĩ sâu tính kĩ, đa nghi, quật cường, dẻo miệng, dễ thấy ngột ngạt, tương đối ích kỉ. Ngọ Ruột non, tim, mắt; cột điện, đèn đường, văn chương, thông tin, văn minh, lễ độ, lễ tiết, tính khí không tốt, hỏi hôn nhân thường có tướng ly dị, không ly thì ở riêng. Ngọ hỏa trùng điệp, tinh thần ngột ngạt, cho nên mới có khẩu quyết: “Ngọ gặp Ngọ, chủ tinh thần kiềm nén; Mùi gặp Mùi, chủ thấp thỏm bất an”. Mùi Ruộng vườn, thị trường gỗ, trúng độc, thể hiện lá lách, sống lưng, cơ bắp, người Mùi thổ thường cơ bắp cường tráng; Mùi thổ bị xuyên (chọc thủng), cơ bắp lỏng lẻo. Tý xuyên Mùi, cơ bắp lỏng lẻo, chính là người béo không có cơ bắp. Mùi thể hiện điện thờ phật, người chi ngày Mùi thổ có vai rộng. Nếu mặc Âu phục, cảm thấy đầu bị thụt vào. Eo tròn. Mùi thể hiện bát hương. Thích ảo tưởng, đa sầu đa cảm. Mùi nhập quẻ Khôn quẻ, Khôn chủ an bình, nhưng hai Khôn trùng điệp thì vật cực tất phản. Thân Quân cảnh, chính trị và pháp luật, người hành pháp, võ thuật, súng ống, hiếu kì và nghịch ngợm, luôn nổ lực để nổi bật hơn người. Thân là chỗ quẻ Khôn, hỏi hôn nhân thì chủ phân ly. Thể hiện ruột già. Xe cộ, đường đi. Truyền thống, vận tải, đao, khoáng thạch.

81

Dậu Đồ trang điểm, đồ trang sức, cái gương, máy làm đẹp. Dậu phổi, mũi. Thìn và Dậu hợp, là ám hợp, là hợp lén lút, Dậu là gà, Thìn là rồng, “Gà gặp Thìn, loạn nhân luân”. Thể hiện rượu, cối xay, trang sức bằng vàng, chim, hành gừng tỏi, người có chữ Dậu (酉) có lúm đồng tiền. Tuất Chủ huyền diệu, thị phi. Thầy thuốc, thầy pháp, bốc, tướng; người cô quả; người trong lĩnh vực tôn giáo. Chân thành, chính trực, đáng tin cậy. Đất khô, lò luyện, bếp, cây giáo, thuốc súng, lao ngục, hình phạt, trời hạn gặp mưa, mộ cổ, chùa miếu, thị trường, địa điểm khiêu dâm, hóa chất. Tổn thương Quan khố, Quan khố dễ là chùa miếu, là thực thần khố, là trường học, cũng có tượng ban biên tập, bởi vì Tuất là hỏa khố, tượng văn minh. Rạp chiếu phim, thị trường, internet, nơi náo nhiệt. Tuất chủ toán học, Tuất Hợi là cung Càn, chủ toán học. Hợi Ban thưởng, đưa tặng. Chân chất, toilet, phòng ca múa, chỗ ăn chơi, chỗ tắm rửa, bệnh khó nói. Hợi chồng chất, chủ có tài năng nhất định về mặt văn hoá hoặc văn chương (bao quát thư pháp, hội hoạ, v.v…). Nước bẩn, trong bát tự vừa có Thìn vừa có Hợi thì nhà có 2 nhà vệ sinh. Thể hiện kênh rạch, xuất hiện chữ Hợi (亥) chi ngày, đầu đặc biệt to. Mắt tròn, thể hiện tinh huyết, nội tiết, còn thể hiện dáng người bất chính. [1] Thấp là ẩm ướt, hối là trốn tránh. [2] Táo là khô ráo; thúy là giòn, dễ vỡ. [3] Chuôi sao trỏ vào đâu gọi là kiến, như lịch ta gọi tháng giêng là kiến Dần 建寅, tháng hai gọi là kiến Mão 建卯 nghĩa là cứ coi chuôi sao chỉ về đâu thì định tháng vào đấy vậy. Vì thế nên gọi là Nguyệt kiến 月建, tháng đủ gọi là Đại kiến 大建, tháng thiếu gọi là Tiểu kiến 小建, v.v. [4] Tham khảo giờ ở TPHCM: https://www.timeanddate.com/sun/vietnam/ho-chi-minh [5] Người phụ nữ lúc nào cũng than thở ủ rủ.

82

[6] Một loại khúc nghệ của Trung Quốc dùng những câu nói vui, hỏi đáp hài hước hoặc nói, hát để gây cười, phần nhiều dùng để châm biếm thói hư tật xấu và ca ngợi người tốt việc tốt. @@@@@@@@@

DỰ ĐOÁN NHÂN DUYÊN : ỨNG DỤNG CỦA 12 CUNG TRƯỜNG SINH 12 cung Trường Sinh là bộ phận không thể thiếu trong dự đoán lục hào, dự đoán hôn nhân càng không thể bỏ qua. Trong việc dự đoán hôn nhân, chủ yếu dùng để phán đoán tính cách, quan hệ, tuổi tác,… chủ yếu mang hàm nghĩa về tượng là chủ yếu. Lấy ngũ hành của Dụng thần làm trung tâm, dựa vào bảng 12 cung trường sinh để xác định vị trí của Nhật Nguyệt và hào Động đối với Dụng thần. Chi tiết hơn mời quý anh chị đọc trong cuốn sách Lục Hào Nhân Duyên Dự Trắc Học. Muốn tìm hiểu thêm về dự đoán lục hào hoặc dự đoán mai hoa, xin mời xem tại đây.

Ý NGHĨA CỦA 12 CUNG TRƯỜNG SINH Trường Sinh: trợ giúp, dựa vào, chỗ dựa, cho ăn, cội nguồn, gốc rễ, nguyên thủy, sản sinh, tìm kiếm, được, phát sinh, bắt đầu, tuổi trẻ,… Mộc Dục: tắm rửa, vào nước, lõa thể, dâm loạn, dâm tục, cởi quần áo, ơn trạch, chỗ tốt, có lợi, bại lộ, trọc lốc, sạch sẽ, bóng loáng, hưởng thụ, thẳng thắn, ngủ, đổ nát, khó coi, vô liêm sỉ, ngoại tình, háo sắc, thoải mái, chăm sóc,… Quan Đới: mặc quần áo, chuẩn bị, không cởi quần áo, trang điểm, đóng gói, trang sức, quần áo, đội mũ, che đậy, che giấu, bề ngoài, cao quý,… Lâm Quan: quan phủ, có bệnh, tai họa, có đàn ông ở bên cạnh, làm quan, có địa vị, công chức, tự lực cánh sinh, tự mình nỗ lực, trưởng thành, sắp thành công, quốc doanh, nguy hiểm,… Đế Vượng: vinh phát, phát đạt, đắc ý, tinh thần, hưng phấn, thần khí, mạnh mẽ, hùng tráng, cao to, am hiểu, lớn mạnh, huy hoàng, phát triển, lên cao, có quyền, cực hạn, cao trào, đỉnh điểm, cường tráng, tuổi trẻ,… Suy: không có sức, mềm yếu, suy nhược, nhỏ yếu, sa sút, nhược trí, suy tàn, sức yếu, xui xẻo, lùi bước, không chỗ dựa, nhược điểm, nhát

83

gan, suy yếu, thấp bé, vô năng, không bản lĩnh, vô học, cao không với tới thấp không bằng lòng, không dám phản kháng, nhỏ tuổi,… Bệnh: bệnh tật, ổ bệnh, chán ghét, căm hận, kẻ thù, coi là kẻ thù, chỗ thiếu sót, khuyết điểm, khiếm khuyết, tật xấu, nhược điểm, sơ hở, nắm đằng chuôi, chỗ yếu, tâm bệnh, vấn đề,… Tử: tử vong, đi vào chỗ bế tắc, không linh hoạt, không thể biến báo, ngưng lại, chung kết, xong đời, cứng đầu, không có chỗ trống, không có sinh khí, không có sức sống, khô khan, vụng về, nghĩ không ra, lòng dạ hẹp hòi, không có đường lui, trống trải, yên tĩnh, đáng sợ, thất bại,… Mộ: bao dung, cất giữ, đóng kín, thu thập, gửi, quản chế, thuộc về, khống chế, thao túng, chỉ huy, bao hàm, bao quát, cạm bẫy, không tự do, mê li, bị quản thúc, ẩn giấu, bảo vệ, hộ vệ, quyền cho phép, ảm đạm, hồ đồ, hắc ám, không trôi chảy, không thông suốt, kết thúc, trở ngại,… Tuyệt: không có đường lui, chia tay, đoạn tuyệt, thất vọng, nản lòng thoái chí, hết hy vọng, bất lực, vô tình, nghiệt ngã, không dàn xếp, chấm dứt, tan biến, hoàn toàn biến mất,… Thai: mang thai, ấp ủ, dự định ban đầu, kế hoạch, hình thành, bẩm sinh, vốn có, trời sinh, bản tính khó dời, sơ cấp, cấu kết, lo lắng, bận tâm, ý nghĩ, ấu trĩ, nhỏ yếu, nhỏ tuổi, cất bước,… Dưỡng: sinh ra, sinh trưởng, ký thác, nhận nuôi, dựa vào, dinh dưỡng, tẩm bổ, giúp đỡ, hoài nghi, không yên tâm, không kiên định, thiếu tự tin, bận tâm, nhận làm con thừa tự, bồi dưỡng, dưỡng dục, nhỏ yếu, nâng đỡ,…

VÍ DỤ Ngày Bính Thân tháng Mão năm Quý Mùi, nữ đoán hôn nhân, được quẻ Càn Vi Thiên biến Phong Thiên Tiểu Súc.

84

Lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Hào Ứng Phụ Mẫu Thìn thổ Không Vong, Ứng là phu vị, Phụ Mẫu là giấy chứng nhận kết hôn, Không Vong biểu thị mất đi, chính là thông tin ly hôn. Thuyết minh hiện tại cô đã ly hôn. Thìn thổ tương ứng với năm Canh Thìn, năm này ly hôn. Quan Quỷ Ngọ hỏa độc phát sinh hào Thế, hiện nay có người nam tốt với mình. Quan Quỷ gặp Nguyệt Mão mộc là Mộc Dục, Hương Khuê lâm Huyền Vũ, Huyền Vũ chủ ám muội, vì vậy người nam này là người tình. Quan Quỷ hóa ra Phụ Mẫu tương hợp Phụ Mẫu là văn thư, giấy chứng nhận kết hôn, biểu thị anh ta là người có gia đình. Hào biến là Thái Tuế, biểu thị năm nay quen biết. Quẻ tại cung Càn chủ nhà nước, biểu thị anh ta là công chức. Quả nhiên tại năm Canh Thìn ly hôn, tháng Dần năm này gặp một người lãnh đạo, trở thành quan hệ người tình. @@@@@@@@@

NGOẠI TÌNH Th6 23

Trong dự đoán nhân duyên thì ngoại tình là 1 trong những chủ đề vô cùng nhạy cảm, nhưng lại rất cần thiết, gần như bắt buộc ai dự đoán nhân duyên cũng phải nắm rõ, để nhận ra vấn đề phát sinh trong đời sống hôn nhân. Các quy luật ở dưới đây mặc dù tỷ lệ ứng nghiệm rất cao nhưng không thể cứ áp dụng một cách cứng nhắc. Cần cẩn thận phân biệt, nếu như hào hợp mà Không Vong thì có khả năng không thành hợp, cũng có thể là tin tức trong quá khứ. Cần hết sức uyển chuyển, không được máy móc. Chi tiết hơn mời quý anh chị đọc trong cuốn sách Lục Hào Nhân Duyên Dự Trắc Học. Muốn tìm hiểu thêm về dự đoán lục hào hoặc dự đoán mai hoa, xin mời xem tại đây. 85

NỮ XEM HÔN NHÂN Chồng hoặc bạn trai đang ngoại tình Nữ xem hôn nhân nếu trong quẻ xuất hiện một số tình huống sau là thông tin về trượng phu đang ngoại tình: •

Thê Tài phục dưới Quan Quỷ



Quan Quỷ phát động tương hợp với hào Huynh Đệ



Hào Huynh Đệ phát động tương hợp với Quan Quỷ



Quan Quỷ phát động tương hợp với hào Tài



Hào Tài phát động tương hợp với Quan Quỷ



Quan Quỷ phát động tương hợp với hào cùng ngũ hành với hào Thế



Hào cùng ngũ hành với hào Thế phát động tương hợp với Quan Quỷ



Huynh Đệ phát động hóa Quan Quỷ



Quan Quỷ phục dưới Thê Tài



Quan Quỷ phục dưới hào cùng ngũ hành với hào Thế



Nhật Nguyệt là Huynh Đệ, cùng Quan Quỷ tương hợp

Chính bản thân người nữ hỏi đang ngoại tình •

Trong quẻ đã có Quan Quỷ nhưng lại có hào động hóa ra Quan Quỷ



Trong quẻ Quan Quỷ lưỡng hiện, hào Quan Quỷ bên phía hào Ứng phát động tương hợp với hào Thế



Quan Quỷ lưỡng hiện, hào Thế phát động tương hợp với hào Quan Quỷ bên phía hào Ứng



Trong quẻ có Quan Quỷ, hào Thế tương hợp với Nhật Nguyệt Quan Quỷ



Phụ Mẫu Không Vong lâm Huyền Vũ nhập Mộ

NAM XEM HÔN NHÂN Vợ hoặc bạn gái đang ngoại tình •

Quan Quỷ phục dưới hào Thê Tài

86



Thê Tài phát động tương hợp với Quan Quỷ



Quan Quỷ phát động tương hợp Thê Tài



Thê Tài phát động tương hợp với hào Huynh Đệ



Hào Huynh Đệ phát động tương hợp hào Thê Tài



Hào có cùng ngũ hành với hào Thế phát động tương hợp với hào Thê Tài



Thê Tài phát động tương hợp với hào có cùng ngũ hành với hào Thế



Thê Tài phục dưới Quan Quỷ



Thê Tài phục dưới hào có cùng ngũ hành với hào Thế



Thê Tài lâm đào hoa, Huyền Vũ cùng Nhật Nguyệt tương hợp

Chính bản thân người nam hỏi đang ngoại tình •

Trong quẻ đã có Thê Tài, lại có hào động hóa ra Thê Tài



Trong quẻ Thê Tài lưỡng hiện, hào Thế phát động cùng hào Thê Tài phía hào Ứng tương hợp



Trong quẻ Thê Tài lưỡng hiện, hào Thê Tài phía hào Ứng phát động tương hợp với hào Thế



Trong quẻ đã có Thê Tài, hào Thế hợp với Nhật Nguyệt Tài tinh



Phụ Mẫu Không Vong lâm Huyền Vũ nhập Mộ

VÍ DỤ Ngày Bính Thìn tháng Tị năm Ất Dậu, nữ (sinh năm Mậu Ngọ) đoán duyên phận vợ chồng, được quẻ Trạch Thiên Quải biến Thủy Thiên Nhu.

87

Lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Quan Quỷ Dần mộc lâm hào 2, lại là hào Ứng, hào 2 hào Ứng đều là hào vị phu thê, vốn Dụng thần quy vị là dấu hiệu tốt đẹp. Tuy nhiên Dụng thần hưu tù, không được Nhật Nguyệt trợ giúp, Nguyên thần Nguyệt phá nhập Mộ ở Nhật, lực sinh Dụng thần bị phá hoại, vì vậy không thể đầu bạc răng long, tình cảm đã xuất hiện vấn đề. Nguyên thần bị Phụ Mẫu lâm Nguyệt xung phá, Phụ Mẫu chủ giấy chứng nhận kết hôn, tình cảm rạn nứt đến mức độ muốn ly hôn. Quan Quỷ Dần mộc và hào động Thê Tài Hợi thủy tương hợp, Thê Tài là phụ nữ, chồng đã qua lại với người phụ nữ khác. Hào Thế là Đào hoa, lâm Huyền Vũ và Nhật hợp, bản thân cũng có bồ. Hào Thế là Thái Tuế, bị Nhật hợp trú, tháng Mão xung khai khắc Quan Quỷ, tháng Mão quan hệ vợ chồng tồi tệ nhất. Tuy nhiên Kỵ thần lâm Thái Tuế bị hợp, năm nay e rằng khó có thể ly hôn. Phải đến năm Bính Tuất xung khai Thìn thổ hợp hào Thế mới có thể thành công. Nhật Thìn thổ là người tình của cô. Nhập quẻ tại hào 3 lâm Đằng Xà, Thìn thổ là Tài khố, Đằng Xà chủ keo kiệt, bủn xỉn, giữ tiền rất chặt. Phản hồi: Phán đoán hiện trạng ở trên hoàn toàn giống với tình hình thực tế, về sau không có phản hồi khi nào ly hôn. @@@@@@@@@@

DỰ ĐOÁN MẤT ĐỒ Th6 23

Dự đoán mất đồ tức là có kẻ trộm vào nhà, hoặc là làm mất đồ vật, nếu là đồ vật không quá quan trọng, đương nhiên người ta thường sẽ không lưu tâm. Nhưng nếu là đồ vật tương đối quý giá hoặc là đồ vật có ý nghĩa kỷ niệm, thì sẽ rất lo lắng, thỉnh cầu dự đoán. Thực ra cho dù là đồ vật quan trọng hay là đồ vật không quan trọng thì người học lục hào đều nên dự đoán thử, điều này rất có ích cho việc nâng cao trình độ dự đoán của bản thân.

CÁCH CHỌN DỤNG THẦN TRONG DỰ ĐOÁN MẤT ĐỒ Dự đoán mất đồ, tùy vào tính chất của vật khác nhau mà Dụng thần cũng khác nhau. Nếu là sách vở, thư từ, chứng thư, xe cộ, quần áo v.v thì lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng thần; nếu là vật dụng hàng ngày, tiền bạc, vật quý giá thì lấy Thê Tài làm Dụng thần.

88

NHỮNG DỰ ĐOÁN TÌM DỰ ĐOÁN MẤT ĐỒ CƠ BẢN Tử Tôn trì Thế, tự mình không cẩn thận để quên ở đâu đó. ◆ Tử Tôn phát động, Thê Tài vượng tướng, vật bị mất có thể quay lại. ◆ Hào Thế lâm Đằng Xà, thường là tự mình quên chỗ để đồ vật. Quẻ du hồn cũng là đã quên đồ vật. Quẻ quy hồn, vật bị mất ở nhà, hoặc cách nhà không xa. ◆ Thê Tài ở nội quái, hóa nhập Không Vong, là người trong nhà đã cầm hoặc người trong nhà làm mất. ◆ Dụng thần phục tàng, bị Nhật xung, vật không bị trộm, là có người đã chuyển chỗ. Nếu Quan Quỷ an tĩnh, vật bị mất có thể quay lại. ◆ Dụng thần vượng tướng sinh Thế, khắc Thế, vật bị mất có thể quay lại. ◆ Dụng phục tàng, Phi thần Không Vong, vật bị mất có thể quay lại. Phi thần gặp xung, vật bị mất cũng có thể quay lại. ◆ Dự đoán nơi chốn của vật bị mất, lấy địa chi Dụng thần và quái cung để phán đoán. Khi phục tàng, lấy lục thân hoặc quái cung của Phi thần để phán đoán. ◆ Thê Tài phát động hóa Quan Quỷ, vật muốn tìm đã bị trộm. Quan Quỷ phát động hóa Thê Tài, vật bị mất vẫn ở gần đây, dễ tìm thấy. ◆ Dụng thần lâm mộc, tìm trong bụi cỏ, tìm gần vật bằng gỗ; lâm thủy, tìm ở nơi gần nước; lâm thổ, ở đống đất lân cận; lâm kim, gần đồ kim loại; lâm hỏa, gần bếp, lò lửa v.v, ở đây đều phiếm chỉ, cụ thể phải phán đoán linh hoạt. ◆ Dụng thần là hào Phụ Mẫu, đồng thời cũng phải kết hợp với suy vượng của Thê Tài, phán đoán vật bị mất có thể tìm lại được hay không. ◆ Dụng thần ở ngoại quái, làm mất ở bên ngoài, hoặc vật bị trộm đã đến phương xa.

89

◆ Dụng thần an tĩnh thì dễ tìm, phát động thì khó tìm. Dụng thần nên vượng, không nên Không Phá. Thế khắc Dụng là khó tìm, Dụng khắc Thế là dễ tìm. ◆ Dụng thần phục hoặc nhập Mộ, vật không ở chỗ sáng; gặp hợp, thường ở trong đồ dùng, tầng hầm, kho v.v. Dụng thần nhập Mộ ở Phụ Mẫu, hoặc phục dưới Phụ Mẫu, thường ở trong quần áo, trong xe, trong nhà. Khi phán đoán khi có thể kết hợp với hào vị.

DỰ ĐOÁN MẤT ĐỒ – TÌM KẺ TRỘM ◆ Trong quẻ biểu thị vật bị mất, Quan Quỷ trì Thế hoặc lâm Nguyệt kiến, là người quen, người nhà, hàng xóm trộm đi. ◆ Quan Quỷ tại hào 2 phát động, là vào nhà ăn trộm, lâm Huyền Vũ là kẻ cướp chuyên nghiệp. ◆ Quan Quỷ lưỡng hiện, không chỉ một người. Quỷ hiện ở nội ngoại quái, trong ngoài phối hợp. Quỷ gặp xung, có người trông thấy. ◆ Quan Quỷ Không Vong, Dụng lâm hào Ứng, là mình cho người ta mượn, hoặc để quên trong nhà người ta. ◆ Đoán giới tính của kẻ trộm, xem âm dương của hào Quan Quỷ, âm là nữ, dương là nam. Lại lấy Quan Quỷ đối ứng với 12 trạng thái ngũ hành sinh diệt để xem tuổi tác của kẻ trộm. Lâm Quan, Đế Vượng là thanh niên; Mộ, Suy, Tuyệt là lão niên. Thai, Dưỡng là trẻ nhỏ. Đây cũng không phải là phương pháp cố định, cần xem linh hoạt. Quan Quỷ có hình, kẻ trộm là người đã từng vào tù; lâm Bạch Hổ, trên người có mang vũ khí, hoặc có bệnh tật. ◆ Lấy lục thần, ngũ hành v.v để phán đoán tướng mạo của kẻ trộm. ◆ Nếu vật bị trộm, Tử Tôn trì Thế hoặc phát động trong quẻ, dễ bắt được kẻ trộm. Bởi vì Tử Tôn là cảnh sát. ◆ Quan Quỷ an tĩnh thì dễ bắt, phát động hoặc phục tàng thì khó bắt. Quỷ sinh hợp Thế, kẻ trộm tự ra đầu thú; khắc hào Thế, chó cùng rứt giậu e rằng làm tổn thương người khác. ◆ Quan Quỷ hóa tiến, kẻ trộm đã đi xa; hóa thoái, còn sẽ trở lại; hợp Thê Tài, hai lần vào hiện trường gây án. 90

◆ Quan Quỷ động mà sinh hợp hào Ứng, kẻ trộm trốn đến xứ sở khác. Quan Quỷ vượng thì khó bắt, bị khắc thì dễ bắt. ◆ Tìm manh mối hoặc người chứng kiến, lấy hào động để phán đoán.

VÍ DỤ VỀ DỰ ĐOÁN DỰ ĐOÁN MẤT ĐỒ Ví dụ 1 Ngày Canh Dần tháng Tuất, một vũ cảnh ở đơn vị tôi đoán về xe đạp bị mất, được Lôi Thủy Giải biến Trạch Thủy Khốn.

Phán đoán: Lấy Phụ Mẫu làm Dụng thần, kiêm xem Tài. Phụ Mẫu Tý thủy không hiện trên quẻ mà phục dưới hào sơ Huynh Đệ Dần mộc, Nguyệt khắc, không được Nhật thần sinh phù hưu tù, xe đạp bị mất là một chiếc xe đạp cũ. Phi thần là Bệnh địa Dụng thần, một chiếc xe đầy hỏng hóc. Quan Quỷ phát động, xe bị người khác trộm đi. Hào Thế Thê Tài Thìn thổ Nguyệt phá Nhật khắc, Nguyên thần Ngọ hỏa lại Không, tượng phá tài, khó tìm được. Kết quả: Quả nhiên là một chiếc xe đạp cũ nát, bị người ta trộm đi, không tìm được.

91

Ví dụ 2 Ngày Giáp Dần tháng Tị, một vũ cảnh ở đơn vị tôi bị mất tiền, hỏi có thể tìm được không? Được quẻ Thiên Sơn Độn biến Lôi Sơn Tiểu Quá.

Phán đoán: Lấy hào Tài làm Dụng thần. Thê Tài Dần mộc không hiện trên quẻ, phục dưới hào Thế Quan Quỷ Ngọ hỏa, ngoại quái Càn số 1, nội quái Cấn số 7, lại cộng thêm hào vị của Dụng thần, tổng cộng là 10, đoán là người đó đã mất 100 tệ. Tài phục dưới Thế, lại lâm Nhật sinh hào Thế, không có dấu hiệu phá tài. Ngoại quái phục ngâm, tiền chỉ di chuyển vị trí mà thôi. Hào 2 là trạch, Tài phục dưới hào 2, lại là quẻ phục ngâm, tiền mặc dù di chuyển vị trí nhưng không ra khỏi phòng. Hào Tài phục tàng, lại thêm quẻ tên là Độn, có tượng giấu kín, tiền ở một nơi mắt không nhìn thấy. Nội quái là Cấn, tượng của nó rất giống một cái bàn, lại thêm Dụng thần là mộc, chủ đồ gỗ, lâm Chu Tước, có tượng văn thư, đoán là tiền ở dưới bàn trong phòng làm việc. Kết quả: Anh ta lập tức đến phòng làm việc và tìm được 100 tệ dưới bàn.

92

Ví dụ 3 Ngày Nhâm Tý tháng Tị, Trương tiên sinh đoán về điện thoại di động bị mất, được quẻ Thiên Sơn Độn.

Phán đoán: Lấy hào Tài làm Dụng thần. Dụng thần Thê Tài Dần mộc không hiện trên quẻ, phục dưới hào 2 Quan Quỷ Ngọ hỏa, mặc dù Không Vong nhưng được Nhật thần sinh phù, Nhật thần xung khai Phi thần, lại thêm Dụng lâm Thanh Long phục dưới hào Thế đến sinh hào Thế, vật bị mất có thể tìm lại. Trong quẻ Quan Quỷ ám động, là điện thoại bị ăn trộm. Quan Quỷ lưỡng hiện, kẻ trộm có hai người. Quan Quỷ Ngọ hỏa lâm hào Thế, Quan lâm Nguyệt kiến, đều là thông tin người nội bộ hoặc người quen. Tử Tôn lâm Nhật xung Quan Quỷ, Tử Tôn là nhân viên công an, chứng tỏ đã báo án. Nhân viên công an đang tìm kẻ trộm. Hào Phi Quan Quỷ Ngọ hỏa ám động, tiết khí Dụng thần, chứng tỏ kẻ trộm đang lén lút sử dụng điện thoại. Kết quả: Theo kết quả kiểm tra của cục điện tín, đúng là có người vẫn đang sử dụng điện thoại này. Qua điều tra của công an, ở tháng Mùi đã tìm được người sử dụng điện thoại, hóa ra là một hàng xóm chung sân với Trương tiên sinh. Nhưng người đó nhất định không chịu thừa nhận

93

là điện thoại ăn trộm, nói là đã mua được từ trong tay một người khác. Hơn nữa cũng không thừa nhận có đồng bọn gây án. @@@@@@@@@@@

DỰ ĐOÁN HÀNH NHÂN (NGƯỜI ĐI XA BAO GIỜ TRỞ VỀ) Th6 24

Lo lắng về an nguy của người đi xa, tìm người mất tích, dự đoán cát hung ở bên ngoài và ứng kỳ trở về, lấy lục thân chủ người đó làm Dụng thần. Sau khi chọn được Dụng thần, xem tình trạng người đó ở bên ngoài, ngày trở về, và nguyên nhân lưu lại ở bên ngoài. Dụng thần nên vượng, không nên hưu tù. Đồng thời cũng phải xem ý định của người dự đoán ra sao, nếu trọng điểm hỏi ngày về nhà, Dụng thần không vượng cũng không sao, nếu trọng điểm hỏi cát hung, Dụng thần nhược thì không tốt. Tôi đã có 1 bài viết về Dự Đoán Mất Đồ, mời các vị dịch hữu xem tại đây.

CÁCH CHỌN DỤNG THẦN TRONG DỰ ĐOÁN HÀNH NHÂN Dụng thần sẽ tuỳ vào người hỏi muốn cho ai mà chọn Dụng thần tương ứng, nếu xem cho anh em thì lấy hào Huynh Đệ, xem bố mẹ thì lấy Phụ Mẫu, xem cho con cháu thì lấy Tử Tôn, xem cho chồng thì lấy Quan Quỷ, xem cho vợ thì lấy hào Tài. Dụng thần nên vượng tướng, không nên hưu tù. Đồng thời xem mục đích của người muốn hỏi, nếu muốn bao giờ về thì Dụng thần không vượng cũng không sao nhưng nếu hỏi cát hung ở ngoài Dụng thần hưu tù bị khắc hiển nhiên là không cát. Nên lưu ý để tránh nhầm lẫn trong dự đoán.

NHỮNG DỰ ĐOÁN HÀNH NHÂN CƠ BẢN ◆ Dụng thần an tĩnh lâm hào Ứng, người còn ở đất khách, chưa có ý định trở về. ◆ Dụng thần sinh Thế, nhưng không phát động, người chậm trở về. ◆ Dụng thần khắc Thế, người về nhanh, động mà khắc Thế, càng nhanh. 94

◆ Thế khắc Dụng thần, người đã đến đất khách, dựa vào Dụng thần suy vượng khác nhau, có trường hợp trở về, cũng có trường hợp không trở về. ◆ Nhật khắc Dụng thần, gần đây sẽ không trở về. ◆ Dụng thần an tĩnh Nhật xung Dụng thần, có người giục mà về, hoặc mời mà về. ◆ Dụng thần động mà hóa thoái, người tất trở về, hóa Tiến thần, di chuyển đến nơi khác. ◆ Dụng thần tại hào 3, hào 4 phát động, người sẽ về nhanh. Bởi vì hào 3, hào 4 là cửa, người đã tới cửa, hiển nhiên đã sắp đến nhà. ◆ Dụng thần tại hào 5 phát động sinh hợp Thế, khắc Thế, người đã ở trên đường về nhà. ◆ Dụng thần động mà sinh hợp hào Thế, vốn là động thân sẽ trở về, nhưng bị hào Ứng, Nhật thần v.v hợp trú, hoặc động mà hóa hợp, tất là bị người giữ lại hoặc bởi vì có việc nên không thể trở về, cần sau này xung khai Dụng thần hoặc hợp thần mới có thể trở về. Bị hào 5 hợp trú, là đã nán lại ở trên đường. ◆ Dụng thần không nên động mà hóa Quan Quỷ, nếu không phải hào Phụ Mẫu, không bệnh thì hung. ◆ Hào Thế Không Vong, người về nhanh. Dụng thần cũng Không, rất khó trở về. ◆ Dụng thần phục tàng, mừng được Phi thần Không Vong, Nhật Nguyệt và hào động khác xung khắc Phi thần. Ứng kỳ cụ thể, xem thêm chương ứng kỳ, tại đây. ◆ Dụng thần lâm Nhật, tĩnh mà hợp Nhật, nhập Nhật Mộ, là tượng hôm đó về nhà. ◆ Nhật thần động mà hóa ra Dụng thần, hoặc Dụng thần động mà hóa ra Nhật thần, hôm đó về. ◆ Dụng thần Không mà lâm Đằng Xà, hành nhân ở bên ngoài đang ở trong trạng thái bất an. 95

◆ Phi thần là Quan Quỷ, lâm Bạch Hổ, người ở bên ngoài không suôn sẻ. Không bị bệnh cũng gặp tai họa, hoặc bị người ta đánh. ◆ Phi thần là Huynh Đệ lâm Huyền Vũ, hoặc ở bên ngoài bị mất đồ, hoặc ở bên ngoài ham mê nữ sắc, hoặc ở bên ngoài bài bạc, sẽ không trở về ngay. ◆ Dụng thần phục dưới Tử Tôn, vui quên trở về, hoặc đắm chìm vào rượu, hoặc bị hậu bối giữ lại, không thể trở về ngay. ◆ Dụng thần phục dưới Phụ Mẫu, hoặc ở nơi người cao tuổi, hoặc ở khách sạn, hoặc bởi vì chuyện văn thư, thủ tục mà lưu lại. ◆ Dụng thần phục dưới Thê Tài, hoặc bởi vì chuyện tiền tài, hoặc bởi vì phụ nữ, hoặc ở trong nhà phụ nữ, không thể về nhà ngay. ◆ Dụng thần Không mà gặp đất Tử Tuyệt, hưu tù bị khắc, ở bên ngoài lành ít dữ nhiều. ◆ Trong quẻ Thê Tài không hiện, hoặc lâm Không Vong, ở ngoài thiếu tiền xài. Nếu bị Huynh Đệ phát động khắc thương, tất ở bên ngoài bị trộm cướp tiền. ◆ Người được dự đoán là phái nữ, không nên Dụng thần và Quan Quỷ tương hợp, không bị lừa gạt thì cũng nhiều tai nạn. ◆ Phụ Mẫu là tin tức, phát động trong quẻ chính là thông tin có tin tức hoặc thư tín, điện thoại. Lâm Chu Tước động càng nghiệm. ◆ Phụ Mẫu hưu tù bị khắc, lại lâm Không Phá, là quái tượng bặt vô âm tín. ◆ Trong quẻ có phản ngâm phục ngâm, người ở ngoài bôn ba, bất an. ◆ Quy hồn có nhớ nhà, du hồn không nhớ nhà. ◆ Dự đoán phương vị và địa điểm của hành nhân, lấy Dụng thần làm trung tâm phán đoán. Dụng thần an tĩnh, lấy địa chi lâm Dụng thần để phán đoán. Dụng thần phát động, lấy hào biến, quẻ biến định phương vị. Dụng thần phục tàng, lấy quẻ đặt Phi thần để phán đoán hoặc lấy địa chi lâm Phi thần để phán đoán. Khi Dụng thần nhập Mộ hoặc bị hợp, lấy hợp thần và địa chi Mộ khố để phán đoán phương vị. 96

◆ Lấy Mộ khố định địa phương: Thìn thổ là Tây Nam hoặc ven sông, hồ chứa nước v.v; Tuất thổ là lò gạch, đền chùa v.v; Mùi là xưởng gia công gỗ, vườn hoa, trong rừng v.v; Sửu là nhà máy, kho kim loại v.v. Đây chỉ là một cách tư duy, cụ thể có thể dựa vào tình huống của quẻ mà phán đoán một cách linh hoạt. ◆ Đoài là đền chùa, đầm lầy, phòng thiếu nữ; Càn là thành phố lớn, chùa miếu; Chấn là khu phố sầm uất, rừng rậm; Tốn là rừng cây, phòng phụ nữ; Khôn là phòng nhiều người, đồng bằng, phòng bà lão; Cấn là núi rừng, phần mộ v.v. ◆ Dụng thần ở hào Thế hoặc nội quái, ở gần; ở ngoại quái, hào 6 là nơi xa.

VÍ DỤ VỀ DỰ ĐOÁN HÀNH NHÂN Ví dụ 1 Ngày Giáp Dần tháng Thân, nữ đoán về con gái bỏ đi, tôi gieo quẻ được quẻ Sơn Hỏa Bí biến Sơn Trạch Tổn.

Phán đoán: Lấy hào Tử Tôn làm Dụng thần. Tử Tôn Thân kim là Dịch Mã, phục tại hào 3. Xem bài vết về Đào Hoa và Dịch Mã trong dự đoán lục hào tại đây. Huynh Đệ lâm Chu Tước phát động là thông tin khẩu thiệt. Nhất định là cãi nhau với ai sau đó trốn đi.

97

Dụng thần phục tại nội quái, con gái không có đi xa. Dụng thần được Nguyệt tỉ phù nên bên ngoài bình an. Nội quái là Ly, đối ứng với phía Nam, con gái đến phía Nam. Tử Tôn nhập Mộ tại hào 2, hào 2 là trạch, Tử Tôn là Dịch Mã, Sửu thổ là Mộ Khố của Dịch Mã, Mộ Khố của Dịch Mã là quán trọ, con gái trong một khách sạn phía Nam. Tìm trong khách sạn ở phía Nam. Ngày Đinh Tị xung mất Phi thần sẽ có thể tìm được. Kết quả: Vì không được chấp nhận chuyện yêu đương nên con gái đã cãi lại rồi trốn đi. Ngày Đinh Tị tìm được con tại một khách sạn ở phía Nam.

Ví dụ 2 Ngày Kỷ Mão tháng Mão, một người phụ nữ ở Bắc Kinh gọi điện thoại tới, nói rằng chị gái của bạn trai cô ấy sau khi cãi nhau với chồng đã bỏ nhà ra đi rồi. Tôi gieo được quẻ Thiên Phong Cấu.

Phán đoán: Dự đoán bạn trai thông thường là lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Dùng nguyên lý chuyển đổi lục thân, cái có ngũ hành tương đồng xem là ngang vai vế, đoán về chị gái của bạn trai cô ấy cũng ứng với hào Quan Quỷ. Quan Quỷ Ngọ hỏa được Nhật Nguyệt đến sinh, Dụng thần vượng tướng, chị gái bạn trai sẽ không xảy ra chuyện. 98

Dụng thần lâm Ứng, Ứng là nơi khác, chứng tỏ bản thân chị ấy muốn rời khỏi Bắc Kinh để đi đến địa phương khác. Dụng thần là Ngọ hỏa, tương ứng với phía Nam, là muốn đi đến phương Nam. Nhật là Nguyên thần, đại diện tâm tư chị ấy, tương hợp với Phụ Mẫu Tuất thổ trong quẻ, Phụ Mẫu là phương tiện giao thông, Dụng thần nhập Mộ ở Phụ Mẫu Tuất thổ, chính là tượng muốn bước vào phương tiện giao thông. Phụ Mẫu Tuất thổ lâm hào 6, hào 6 là hào vị bầu trời, thì có thể hiểu là máy bay. Vậy là muốn đáp máy bay đến phương Nam. Nếu như bây giờ nhanh chóng chạy đến sân bay thì có thể tìm thấy chị ấy. Kết quả: Sau khi đoán xong, hỏa tốc chạy tới sân bay, đã tìm được chị ấy ở đó. Chị ấy đã mua vé máy bay và đang định đi đến phương Nam.

Ví dụ 3 Ngày Nhâm Dần tháng Dậu, vợ đi công tác, đoán ngày nào vợ về, được quẻ Lôi Trạch Quy Muội biến Hỏa Trạch Khuê.

Phán đoán: Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Thê Tài Mão mộc Nguyệt phá, nhưng được Phụ Mẫu Tuất thổ động mà hợp Thê Tài, Nguyệt phá có thể giải. Dụng thần được Nhật tỉ phù, không là hưu tù, hỏi ngày về, không lấy Nguyệt phá định ngày về. Trong quẻ Huynh Đệ ám động khắc chế Dụng thần, ngày Ất Tị hợp trú Kỵ thần, Dụng thần không còn bị khắc sẽ về, lại bởi vì Phụ Mẫu Tuất thổ động

99

mà hóa Không, thiếu lực hợp Dụng thần Nguyệt phá, ngày Tị xuất Không hợp Dụng thần, Dụng thần sẽ không là phá, có thể về. Kết quả: Sau này quả nhiên về ở ngày Ất Tị. @@@@@@@@@

ĐÀO HOA – DỊCH MÃ TRONG DỰ ĐOÁN LỤC HÀO Th7 01

Đào Hoa và Dịch Mã là 2 thần sát rất thường xuyên sử dụng nhất trong dự đoán lục hào, đặc biệt trong dự đoán nhân duyên, tài vận, tính cách tướng mạo, quan vận.. 2 thần sát này cách dùng cũng rất khác với các tài liệu trước đây đã lưu hành ở Việt Nam. Đặc biệt Đào Hoa và Dịch Mã trong dự đoán lục hào của Vương Hổ Ứng lão sư gần như chỉ chủ về tượng, chứ không chủ cát hung. Bài viết về các Thần Sát mời xem tại đây

ĐÀO HOA Cách xác định Đào hoa thường dùng để phán đoán thái độ đối với tình yêu và quan điểm về mối quan hệ như thế nào. Trong lục hào thường lấy Đào hoa làm một căn cứ để phán đoán duyên số nam nữ, thường ứng nghiệm. Thời gian mà có nhiều mối duyên khác giới, gọi là vận đào hoa. Đào hoa được xác định theo ngày tháng (hào xung với chi đầu) •

Thân Tý Thìn đào hoa tại Dậu



Dần Ngọ Tuất đào hoa tại Mão



Tị Dậu Sửu đào hoa tại Ngọ



Hợi Mão Mùi đào hoa tại Tý

Nói cách khác: tháng Thân, tháng Tý, tháng Thìn hoặc ngày Thân, ngày Tý, ngày Thìn dự đoán, khi trong quẻ xuất hiện Dậu kim thì Dậu kim là Đào hoa.

100

Đào hoa dùng để phán đoán tình trạng quan hệ nam nữ, cũng không phải cứ Đào hoa là xấu.

Ví dụ về Đào Hoa Ví dụ : Ngày Bính Dần tháng Dần, nam đoán bạn gái, được quẻ Địa Hỏa Minh Di biến Trạch Thiên Quải.

Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Thê Tài Ngọ hỏa không hiện trên quẻ, phục tàng dưới hào 3 Huynh Đệ Hợi thủy. Dụng thần tại cung Khảm, cô ấy rất thông minh. Phản hồi: Đúng, đầu óc cô ấy rất tốt. Dụng thần lâm hỏa, cô ấy là một người tương đối hoạt bát. Phản hồi: Đúng, rất hoạt bát, tràn đầy sức sống. Thích giao tiếp với mọi người, luôn mỉm cười, là loại người thấy người yêu. Dụng thần lâm Đằng Xà, có khiếu về nghệ thuật. Phản hồi: Cô ấy hát hay, trước đây từng kiếm tiền bằng ca hát. Hào Ứng là Nguyên thần, lâm Đào hoa, cô ấy nhìn rất đẹp, rất gợi cảm. Phản hồi: Đúng thế. Ngay cả bản thân cô ấy cũng tự hào về ngoại hình đẹp của mình. Hai Quan Quỷ phát động, hào Thế lâm Bạch Hổ bị Nhật Nguyệt khắc, người xin đoán đã từng bị thương nặng.

101

Phản hồi: Đúng vậy, đó là khi còn học cấp ba đã phát sinh một tai nạn lớn, báo chí đều đăng, cho đến bây giờ trên khuôn mặt vẫn còn lưu lại vết sẹo. Hai Quan Quỷ phát động, kẹp Dụng thần, cô ấy phải trải qua hai cuộc hôn nhân. Ứng lâm Tử Tôn, cô ấy có con riêng. Phản hồi: Đúng thế. Cô ấy đã từng ly hôn một lần. Có con riêng.

DỊCH MÃ Cách xác định Dịch mã biểu thị xa xôi, bôn ba, trên đường, phương tiện giao thông, buôn bán, ra ngoài, rời khỏi, chia lìa, di chuyển nhanh,… Dịch mã được xác định theo ngày tháng. •

Thân Tý Thìn dịch mã tại Dần Ngọ Tuất



Dần Ngọ Tuất dịch mã tại Thân Tý Thìn



Hợi Mão Mùi dịch mã tại Tị Dậu Sửu



Tị Dậu Sửu dịch mã tại Hợi Mão Mùi

Nói cách khác: tháng Thân, tháng Tý, tháng Thìn hoặc ngày Thân, ngày Tý, ngày Thìn dự đoán, khi trong quẻ xuất hiện Dần mộc thì Dần mộc là Dịch mã.

Ví dụ về Dịch Mã Ví dụ : Ngày Giáp Dần tháng Mùi năm Giáp Thân, nữ đoán ngoại tình, được quẻ Thủy Phong Tỉnh biến Trạch Phong Đại Quá.

102

Lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Trong quẻ Quan Quỷ lưỡng hiện, thông thường lấy một hào trong đó làm Dụng thần. Nhưng có lúc căn cứ vào tình huống dự đoán khác nhau, hai Dụng thần mỗi cái có một công dụng. Hào động Quan Quỷ Thân kim là người đàn ông ngoài hôn nhân, hào tĩnh Quan Quỷ Dậu kim là chồng cô ta. Hương Khuê Tý thủy Hợi thủy lưỡng hiện, hai người sống chung với nhau. Hợi thủy lâm Ứng, Ứng là người khác, cùng Nhật hợp, Nhật biểu thị hiện tại, thuyết minh bây giờ cô ta càng sốt sắng với người đàn ông kia. Dụng thần Quan Quỷ Thân kim lâm Thái Tuế phát động, biểu thị mới quen người đàn ông này trong năm. Dụng thần lâm Dịch Mã động hóa Phụ Mẫu, Dịch Mã là xe, hóa ra Phụ Mẫu cũng chủ xe, lâm Đằng Xà chủ kỹ thuật, đối phương biết lái xe. Hào Thế sinh Dụng thần, bản thân rất thích người này. Hào Thế lâm Thê Tài tại hào 5, hào 5 là ông chủ, Thê Tài là kinh doanh, thuyết minh bản thân là chủ hộ kinh doanh cá thể. Quan Quỷ Dậu kim lâm Câu Trần, Câu Trần là thành thật, chồng là người hiền lành, thật thà. Dụng thần Quan Quỷ Thân kim bị Nhật Huynh Đệ Dần mộc xung, lại hợp nhập Hương Khuê Hợi thủy, Huynh Đệ là người tranh đoạt, người cạnh tranh với mình, hợp nhập Hương Khuê của mình, chính là có nữ nhân khác đến tranh giành người tình ngoài hôn nhân. Xung cũng biểu thị đến tranh đoạt. Dụng thần bị xung lại biểu thị bị người bắt gặp. Dụng thần sinh hào Ứng, đây là vô tình, biểu thị người tình ngoài hôn nhân hiện tại đối xử tốt với người khác, lạnh nhạt với cô. Hào Thế lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ chủ tức giận, tâm trạng không tốt, rất tức giận. Phản hồi: Quả nhiên là như vậy. Người tình ngoài hôn nhân là tài xế của một cơ quan chính phủ, cô là chủ một cửa hàng quần áo. Thường cho tình nhân xài tiền, rất thích hắn. Chồng rất hiền, không quản được chuyện bên ngoài của cô ta, cô ta và tình nhân quan hệ công khai. Nhưng mấy ngày trước hàng xóm phát hiện tình nhân của cô ở chung với người phụ nữ khác, liền nói cho cô ta biết, vì vậy cô ta rất tức giận, nhưng hắn hoàn toàn không để ý tới cô ta. @@@@@@@@

TẾ THUYẾT LỤC HÀO DỰ TRẮC HỌC 103

vuonghoung.com

Tế Thuyết Lục Hào Dự Trắc Học hay lục hào nhập môn là 1 cuốn sách cơ bản về lí thuyết dự đoán lục hào cơ bản nền móng dành cho người mới bắt đầu học dự đoán lục hào của Vương Hổ Ứng lão sư, Tế là nhỏ là cơ bản, Thuyết là nói, hiểu nôm na là phần lí luận cơ bản nhất để luận đoán 1 quẻ dịch lục hào. Hy vọng seri bài viết này sẽ giúp các đồng môn có 1 cái nhìn tổng quát hơn, rõ ràng hơn. . Muốn đọc chi tiết hơn mời quý đồng môn đọc giới thiệu về cuốn Tế Thuyết Lục Hào Dự Trắc Học. • • •

Tăng San Bốc Dịch Bình Thích Lục Hào Quái Lệ Thuyết Chân Tế Thuyết Lục Hào Dự Trắc Học

Mục lục •





LỜI TỰA SÁCH TẾ THUYẾT LỤC HÀO DỰ TRẮC HỌC CHƯƠNG 1 DỰ ĐOÁN LỤC HÀO VÀ CUỘC SỐNG CỦA CHÚNG TA CHƯƠNG 2 LỊCH SỬ CỦA DỰ ĐOÁN LỤC HÀO VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NÓ

LỜI TỰA SÁCH TẾ THUYẾT LỤC HÀO DỰ TRẮC HỌC Nói về đoán quẻ, có người tin, có người không tin. Nếu như hỏi tôi vào hơn mười năm trước, thì chắc chắn là tôi cũng trả lời không tin. Tuy nhiên, tôi bẩm sinh có một cái tâm hiếu kỳ, đối với thế giới chưa biết thì luôn tràn đầy khát khao tìm hiểu. Tôi làm công tác khảo cổ, khi đọc các nghiên cứu văn hiến, tôi thường bắt gặp một số nội dung có liên quan đến chiêm bốc cổ đại. Để làm sáng tỏ nỗi băn khoăn về 104

chiêm bốc, tôi đã đọc rất nhiều tư liệu, vô tình hiểu được phương pháp cơ bản của nó, hơn nữa cũng đã yêu thích bộ môn này. Những lúc rảnh rỗi, tôi đã dùng phương pháp chiêm bốc cổ đại mà tôi học được từ sách để chơi trò bói toán với các bằng hữu, vậy mà đoán đúng rất nhiều lần. Nếu là một hai lần đoán đúng thì có lẽ là trùng hợp, nhưng sau nhiều lần dự đoán chính xác đã gợi lên ham muốn khám phá của tôi, tôi quyết định đi sâu vào nghiên cứu. Qua nghiên cứu kỹ lưỡng, tôi đã phát hiện ra rằng không phải tất cả những gì nói trong sách cổ đều đúng, thế là tôi đã nảy sinh ý nghĩ sửa chữa những luận thuật sai lầm của cổ nhân. Tôi bắt đầu thực hành xem quẻ hàng loạt để nghiệm chứng tính thật giả của nó, đồng thời cũng thỉnh giáo các cao nhân trong dân gian, cuối cùng cũng đã nắm bắt được đạo lý của dự đoán lục hào. Phương pháp dự đoán lục hào là phát minh và là kết tinh trí tuệ của cổ nhân, cho đến bây giờ nó vẫn còn có giá trị sử dụng rất lớn, nó có thể chỉ đạo cho cuộc sống của chúng ta, giúp cho cuộc sống của chúng ta được tốt đẹp hơn. Thông qua nghiên cứu, mặc dù tôi đã có những đột phá và phát triển lớn về phương diện này, nhưng vẫn không dám chiếm làm của riêng mình, tôi muốn dùng ngôn ngữ thông tục dễ hiểu để viết ra, giúp cho mọi người đều có thể học được, qua đó đem lại hạnh phúc cho xã hội và làm phong phú thêm đời sống của mọi người. Vương Hổ Ứng

CHƯƠNG 1 DỰ ĐOÁN LỤC HÀO VÀ CUỘC SỐNG CỦA CHÚNG TA Chúng ta đến sống ở thế giới này, sử dụng nhục thể của chúng ta để nếm trải toàn bộ thế giới nhân sinh. Những sự việc bất hạnh thì tất cả mọi người đều không muốn thể nghiệm, nhưng phần lớn chúng ta lại không thể sống 105

theo ý nguyện của bản thân. Mọi người đều muốn biết trước tương lai, là niềm vui tài vận hanh thông, hay là đau khổ vì kinh doanh thất bại, là hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn, hay là hôn nhân tràn đầy phiền não, bệnh tật và tai nạn có thể đến với chúng ta bất cứ lúc nào, mà mục đích của dự đoán chính là để sớm biết cát hung ở tương lai, từ đó đề phòng tai họa khi chưa xảy ra. Chúng ta không phải là thánh nhân, nhưng chúng ta có thể nhờ vào một loại sức mạnh vượt thời gian-không gian để biết trước sự việc sẽ xảy ra, từ đó cải biến thông tin hung, cố gắng làm cho sự việc phát triển về hướng cát. Nếu như là trước khi chưa học dự đoán lục hào thì tôi cho rằng điều này là không thể, nhưng bây giờ thì tôi có thể quả quyết rằng điều đó là chắc chắn. Dịch học Bát Quái của thánh nhân Phục Hy sáng tạo cách đây hơn 6000 năm hoàn toàn có khả năng này, chỉ cần nắm vững một lĩnh vực trong Dịch học, thì có thể dự đoán tương lai, nắm bắt và cải thiện vận mệnh của bản thân. Trong những năm gần đây, thông qua việc dự đoán, tôi đã loại bỏ rất nhiều phiền não, thống khổ cho bản thân và cho nhiều người khác, tôi cũng cảm động sâu sắc trước sự thần kỳ của thuật dự đoán mà cổ nhân đã để lại. Hiện nay, dự đoán đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của tôi. Phạm vi sử dụng của dự đoán lục hào rất rộng, có thể dự đoán thời tiết, động đất, nông nghiệp, mua bán, cát hung đời người, thi lên lớp, hôn nhân, sinh nở, bệnh tật, tìm người tìm vật, thi đấu thể thao, cổ phiếu, xuất hành an nguy, giải mộng, phong thủy v.v, đây là một phương pháp dự đoán đa dạng với tỷ lệ ứng nghiệm rất cao. Xin đưa ra một ví dụ: Ngày 14 tháng 8 năm 1996, cô Lý công tác ở một bưu điện tại thành phố Thái Nguyên, khi đến khu vực sầm uất của thành phố Thái Nguyên để mua sắm, chiếc xe đạp của cô đã bị đánh cắp, cô ấy đã tới chỗ tôi xin dự đoán, được quẻ Trạch Lôi Tùy biến Thủy Hỏa Ký Tế. Tôi

106

đã phán đoán như sau: Xe đạp bị mất ở ba ngày trước, là một chiếc xe đạp mới, bảy giờ sáng mai đến chỗ chiếc xe đạp bị mất sẽ có người báo cho biết tăm tích của nó, ba ngày sau sẽ lấy được chiếc xe về nhà. Cô ấy theo phương pháp tôi nói, bảy giờ sáng hôm sau đã đi đến chỗ chiếc xe bị mất. Khi đang loanh quanh ở đó, đột nhiên có một ông lão đi tới hỏi cô: “Cô đang tìm xe đạp à?” Cô ấy cảm thấy hơi ngạc nhiên, vội vàng gật đầu. Cụ già chỉ vào một gian nhà bên đường và nói: “Bốn hôm trước, một thanh niên ở đây đã đẩy chiếc xe đạp đi.” Đồng thời ông cụ cũng cho biết chi tiết về tướng mạo của người thanh niên. Sau khi cô nói rõ tình hình với lãnh đạo của công ty đó, đến ngày 17 đã lấy lại được chiếc xe về nhà. Lại một ví dụ khác: Ngày 1 tháng 5 năm 1999, khi tôi đang ở trường Trung y giảng bài sử dụng lục hào dự đoán bệnh tật, đột nhiên có một người phụ nữ hơn 40 tuổi đến xin dự đoán, người này muốn hỏi về tình trạng bệnh tật của đứa con trai 16 tuổi. Đang trong lúc giảng bài, vốn muốn từ chối, nhưng thấy khuôn mặt cô ấy đầy vẻ đau buồn, với lại nội dung muốn hỏi cũng tương đồng với nội dung bài giảng, thế là tôi bảo cô ấy gieo quẻ, được Phong Thiên Tiểu Súc biến Phong Lôi Ích. Tôi lập tức viết quẻ lên bảng và tiến hành phân tích phán đoán. Bệnh của đứa trẻ này không phải là bệnh thông thường, thường bị nhầm lẫn với bệnh tâm thần. Thời gian mắc bệnh là vào năm 1997. Đặc biệt là ban đêm tương đối đáng sợ, sau khi nằm xuống ngủ không yên, gặp phải ác mộng và la hét, có cảm giác như bị người khác hút máu, thực ra là có hai ma nữ triền thân. Ma nữ từ cửa sổ vào nhà, phía Đông hoặc Đông Nam của nhà vốn có một rừng cây, nhưng sau này người ta đã chặt khu rừng đó đi để xây cất nhà cửa. Sau khi nghe xong phán đoán của tôi thì người phụ nữ này vô cùng hoảng hốt, kết quả phán đoán hoàn toàn ăn khớp với bệnh của đứa con. Gia

107

đình cô ấy mới chuyển đến đây sống vào năm 1997, lúc đó ở phía Đông đúng là có một mảnh rừng liễu, về sau do nhu cầu xây dựng các tòa nhà khác nên công ty phát triển bất động sản đã chặt rừng cây đó đi. Từ đó về sau đứa con đã bị bệnh. Bởi vì không rõ nguyên nhân sinh bệnh nên cứ mãi điều trị như bệnh tâm thần, rất nhiều thầy thuốc đã chữa trị nhưng đều không có hiệu quả. Mỗi ngày, đầu óc của đứa con cứ mơ mơ màng màng, rất ghét ánh sáng, thường xuyên cảm thấy như có người hút máu nó. Nhưng bản thân nó lại không hề có một chút năng lực phản kháng, mỗi đêm kêu la một cách đau khổ. Nhiều đêm cô nghe trong phòng của con có hai người phụ nữ đang nói chuyện, nhưng nghe không rõ họ đang nói cái gì. Khi cô nhẹ nhàng bước vào phòng thì trong đó lại chẳng có cái gì cả. Đứa con có cái tật là thích mở cửa sổ trong khi ngủ, cô sợ con bị cảm lạnh nên nhẹ nhàng đóng lại, thế nhưng vừa mới đóng cửa sổ thì đứa con liền tỉnh lại, khóc lóc đau khổ, bảo mở cửa sổ ra. Phán đoán phù hợp với sự thực, tôi bảo ở bức tường phía Đông treo lên kiếm gỗ đào có bôi nhựa thông, trong mấy ngày đứa con đã khỏi bệnh như một kỳ tích. Năm 1998, một người đàn ông 66 tuổi ở quê tôi đến xin dự đoán. Ông ta tư thông với một người phụ nữ nhỏ hơn mình 20 tuổi, sợ rằng vì vậy mà gặp phiền phức, xem được quẻ Hỏa Sơn Lữ biến Hỏa Lôi Phệ Hạp. Tôi đã suy luận như sau. Người phụ nữ qua lại với ông ta là người đã có chồng, nhưng chồng cô ấy không có bản lĩnh, chuyện này cho dù bị chồng cô ấy biết được cũng sẽ không gây ra phiền phức. Tuy nhiên vẫn có ba điểm phải chú ý. Đầu tiên là sức khỏe của bản thân, cơ thể không khỏe, có bệnh tim, đặc biệt là vào mùa hiện tại rất dễ phát bệnh. Một điều nữa là sẽ có tai nạn giao thông vào tháng 12 năm 1999. Thứ ba là vào năm 2000, chuyện này sẽ bị vợ và con biết, phát sinh mâu thuẫn, lưu lạc ở quê người nửa năm.

108

Ông ta cho biết bốn ngày trước bệnh tim đã phát tác một lần, đồng thời thỉnh cầu hóa giải tai nạn giao thông, thế là tôi đã tiến hành hóa giải xử lý. Tháng 5 năm 2000, người này lại tới chỗ tôi xin dự đoán. Ông ta nói rằng vào tháng 12 năm 1999, do tuyết rơi đường trơn, chiếc xe của ông đã đâm vào lan can cầu, cũng may là đã sớm tiến hành hóa giải, nếu không thì rơi từ trên cầu xuống sẽ có nỗi lo về tính mạng. Chuyện ngoại tình cũng đã bị vợ và con phát hiện, vợ đã bắt cóc người phụ nữ kia và ép ông ta giao ra tài sản, ông ta đã dùng tiền thuê người cứu nhân tình ra và cùng trốn khỏi quê nhà. Bây giờ muốn dự đoán xem khi nào mới có thể yên ổn để trở về. Trong ba ví dụ trên đây, tất cả những suy luận, phán đoán và phương án hóa giải đều là từ trong quẻ tìm được. Thay vì nước đến chân mới nhảy, lúc hữu sự mới tìm người dự đoán, đem vận mệnh của bản thân giao cho người khác, chi bằng tự mình làm chủ thuật dự đoán, nắm vững vận mệnh trong tay, như vậy có thể khiến cho cuộc sống của mình phong phú hơn, đồng thời cũng có thể tự thể nghiệm thú vui của chiêm bốc.

CHƯƠNG 2 LỊCH SỬ CỦA DỰ ĐOÁN LỤC HÀO VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NÓ Dự đoán lục hào là một trong rất nhiều phương pháp được sinh ra từ Chu Dịch dự đoán học. Nó có hệ thống riêng biệt, là một loại thuật dự đoán có lý luận rất hoàn chỉnh. Tại Trung Quốc, phương pháp dự đoán này có tỷ lệ ứng nghiệm rất cao, nó được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và được rất nhiều dự trắc sư yêu thích. Các triều đại đều có rất nhiều người say mê dự đoán lục hào, họ kế thừa và phát triển môn học này, nhờ đó mà môn học này được lưu truyền đến ngày nay. Về nguồn gốc, dự đoán lục hào xuất phát từ Kinh Phòng Dịch vào thời Hán hơn 2000 năm trước. Kinh Phòng là một nhà 109

Dịch học nổi tiếng thời đó, ông đã lấy Chu Dịch làm cơ sở, khéo léo đưa âm dương ngũ hành và can chi vào trong bát quái, đồng thời dựa vào quan hệ tương sinh tương khắc giữa 12 địa chi và quái cung để phối lục thân, lập ra tư duy và phương pháp nguyên thủy của dự đoán lục hào, sau đó lại được sự phát triển của các nhà Dịch học ở các triều đại khác nhau, thành quả là lục hào dự đoán học ngày nay. Loại phương pháp dự đoán này là lấy can chi đưa vào bát quái sau đó tiến hành dự đoán, vì vậy lúc đầu nó được gọi là “nạp giáp phệ pháp”, nhưng bởi vì nó được phát triển từ phương pháp đoán hào từ của Chu Dịch, vì vậy lúc thuật dự đoán này mới xuất hiện, khi phán đoán cát hung của sự việc vẫn còn tham khảo hào từ để tiến hành phán đoán. Về sau, do ảnh hưởng của Đạo giáo và các thuật dự đoán khác, các dự trắc sư đã thêm vào rất nhiều thần sát khi phán đoán sự việc, trái lại khiến cho thuật dự đoán xuất hiện cục diện hỗn loạn. Có điều là phương pháp dự đoán trong thời gian đầu chỉ được số ít người hiểu rõ, người dân bình thường không hề biết sử dụng, mãi đến thời Tống, sau khi cuốn “Hỏa Châu Lâm” của “Ma Y Đạo Nhân” ra đời thì mới được truyền bá rộng rãi ở dân gian. Do đó, thời xưa cũng gọi thuật dự đoán này là “Hỏa Châu Lâm Pháp”. Tuy nhiên, phương pháp nói trong “Hỏa Châu Lâm” vẫn còn có khác biệt rất lớn so với thuật dự đoán lục hào hiện nay, trong Hỏa Châu Lâm vẫn chưa có thuyết Nguyệt phá và ám động, cách dùng của 12 trạng thái ngũ hành sinh diệt (tức 12 cung trường sinh) cũng chưa rõ ràng. Sau đó đến thời Minh và thời Thanh, đây là thời kỳ đỉnh cao với nhiều tác phẩm dự đoán lục hào được sáng tác. Các tác phẩm trong giai đoạn này gồm có “Hoàng Kim Sách”, “Đoán Dịch Thiên Cơ”, “Đoán Dịch Toàn Thư”, “Đoán Dịch Thần Thư”, “Hải Để Nhãn”, “Dịch Mạo”, “Dịch Lâm Bổ Di”, “Dịch Ẩn”, “Bốc Phệ Toàn Thư”, “Tăng San Bốc Dịch”, “Bốc Phệ Chính Tông”, “Bốc Phệ Viên Cơ”, “Thiên Huyền Đoán

110

Dịch”, “Phệ Học Chỉ Yếu”, v.v. Nhưng suy cho cùng thì sách cũng chỉ là sách, có một số phần tinh hoa lại được lưu truyền trong dân gian dưới hình thức truyền miệng, đây cũng là đặc điểm của việc truyền bá dự đoán học xưa nay. Trong cuốn sách này, bên cạnh việc trình bày những nghiên cứu từ sách cổ, tôi còn thêm vào phần truyền miệng có tính thực dụng rất cao. Ngoài ra còn có một phần nội dung tương đương là những phát hiện và tổng kết của tôi thu được từ trong thực tiễn. Học vấn không có chỗ tận cùng và phải theo kịp bước chân lịch sử. Mà dự đoán học cổ đại cũng phải hòa vào thời đại hôm nay, chỉ có phát triển hơn nữa, học tập và ứng dụng một cách linh hoạt, thì mới có thể giúp cho bản thân trở thành một nhà dự đoán tài giỏi. Các chương sẽ ra đều đặn… Mời quý dịch hữu chớ có vội vàng ! ==============

TẾ THUYẾT LỤC HÀO DỰ TRẮC HỌC – PHẦN 4 – Sách Kinh Dịch Lục Hào Vương Hổ Ứng vuonghoung.com

Tế Thuyết Lục Hào Dự Trắc Học hay lục hào nhập môn là 1 cuốn sách cơ bản về lí thuyết dự đoán lục hào cơ bản nền móng dành cho người mới bắt đầu học dự đoán lục hào của Vương Hổ Ứng lão sư, Tế là nhỏ là cơ bản, Thuyết là nói, hiểu nôm na là phần lí luận cơ bản nhất để luận đoán 1 quẻ dịch lục hào. Hy vọng seri bài viết này sẽ giúp các đồng môn có 1 cái nhìn tổng quát hơn, rõ ràng hơn. Phần 1 xin mời xem tại đây. Muốn đọc chi tiết hơn mời quý đồng môn đọc giới thiệu về cuốn Tế Thuyết Lục Hào Dự Trắc Học.

111

• • •

Tăng San Bốc Dịch Bình Thích Lục Hào Quái Lệ Thuyết Chân Tế Thuyết Lục Hào Dự Trắc Học

Mục lục •

CHƯƠNG 8: TÁC DỤNG CỦA LỤC THÂN, LỤC THẦN, THẾ ỨNG o I. Ý NGHĨA CỦA LỤC THÂN o II. QUAN HỆ SINH KHẮC CỦA LỤC THÂN o III. Ý NGHĨA CỦA LỤC THẦN o IV. VAI TRÒ CỦA THẾ ỨNG

I. Ý NGHĨA CỦA LỤC THÂN Trong một quẻ thì có nhiều lục thân. Khi phán đoán cát hung của sự vật, thông thường chúng ta phải chọn một lục thân có chứa ý nghĩa tương đồng với nội dung dự đoán để triển khai suy đoán quẻ. Lục thân này được gọi là Dụng thần. Lục thân là căn cứ để trích xuất Dụng thần, đồng thời cũng là ký hiệu để triển khai quái tượng và phân tích nội dung của sự vật. Nếu như không có lục thân thì không thể chọn Dụng thần, không thể đưa ra phán đoán cụ thể về sự vật phát sinh. Mỗi lục thân thể hiện rất nhiều ý nghĩa, chỉ khi hiểu được ý nghĩa của các lục thân thì chúng ta mới có thể chọn Dụng thần và đưa ra phán đoán cát hung một cách chính xác. 1. Ý nghĩa của Phụ Mẫu Phụ Mẫu thể hiện cha mẹ, ông nội, bà nội, bà ngoại, ông ngoại, cô, chồng của cô, dì, chồng của dì, mợ, cậu, thầy cô giáo, cha nuôi, mẹ nuôi, cha vợ, mẹ vợ, trưởng bối, người già; trời đất, đất đai, mồ mả, thành trì, tường bao, 112

phòng ốc, kiến trúc, công trình, xe đạp, xe hơi, xe lửa, thuyền, máy bay, mưa, tuyết, áo mưa, dù, quần áo, giày mũ, vải vóc, khăn đội đầu, khẩu trang, báo cáo, văn chương, văn kiện, sách vở, giấy báo, thư tín, hợp đồng, thông tin, tin tức, tín hiệu, trường học, bệnh viện, đầu, phần mặt, ngực, lưng, bụng, mông, phòng điều trị, đệm chăn, ra giường, đơn vị công tác, nha môn,… 2. Ý nghĩa của Quan Quỷ Quan Quỷ thể hiện chồng, đàn ông, công danh, thứ bậc, tên, quan phủ, công an, kiện tụng, nhà nước, ngành tư pháp, lãnh đạo cấp trên, sấm sét, sương mù, khói, quỷ thần, đạo tặc, kẻ xấu, tù trốn trại, loạn đảng, tai họa, ưu sầu, quan vị, công việc, lên lớp, nghề nghiệp, chủ nhân, bệnh tật, thi thể, người chết, vùng nhiễm bệnh, virus, tạp niệm, phiền não,… 3. Ý nghĩa của Huynh Đệ Huynh Đệ thể hiện anh em, chị em gái, bạn bè, đồng nghiệp, cản trở, cạnh tranh, phá tài, phá hao, gió mây, cửa ngõ, nhà vệ sinh, vách tường, tham của, đánh bạc, cướp đoạt, tranh giành, cánh tay, chân, bàn chân, răng, dạ dày, vai, bàng quang, ăn uống không vào, rối loạn tiêu hóa,… 4. Ý nghĩa của Thê Tài Thê Tài thể hiện vợ, người yêu, phụ nữ, đối tượng yêu đương, bạn gái, nô bộc, bảo mẫu, người giúp việc, nhân viên tùy tùng, người làm thuê, tài sản, tiền vốn, kinh tế, giá cả, tiền tệ, dụng cụ, nhà kho, lương thực, bếp, phòng bếp, thực vật, hàng hóa, quần áo cưới, bổng lộc, tiền lương, thu nhập, thù lao, chi phí, đạo lý, vật bẩn thỉu, hàng vận chuyển, châu báu, đồ trang sức, đồ dùng hàng ngày, trời nắng, lông tóc, ẩm thực, máu, hô hấp,

113

nước mắt, phân và nước tiểu, mồ hôi, sữa, nước mũi, nước bọt, eo, hậu môn,… 5. Ý nghĩa của Tử Tôn Tử Tôn thể hiện con cái, con cháu, trẻ con, trẻ sơ sinh, thế hệ sau, đời sau, cháu gái, cháu trai, cháu ngoại trai, lương tướng, tăng đạo, người xuất gia, tín đồ, binh lính, công an, phúc thần, nguồn tiền, đường đi, hành lang, động vật, mặt trời, mặt trăng, sao, thiên thể, trời nắng, uống rượu, vui vẻ, giải trí, không lo lắng, bác sĩ, dinh dưỡng, dược phẩm, vú, ngũ quan, tiểu tiện, phù chú, thầy khí công, bà mo, thầy cúng, thực quản, đường hô hấp, khí quản, mắt, tai, miệng, mũi, mạch máu, lỗ chân lông, ruột, bộ phận sinh dục, tủy,…

II. QUAN HỆ SINH KHẮC CỦA LỤC THÂN Bởi vì lục thân được suy ra từ quan hệ sinh khắc của ngũ hành, do đó giữa chúng cũng tồn tại quan hệ sinh khắc giống như ngũ hành. 1. Tương sinh của lục thân Tử Tôn sinh Thê Tài, Thê Tài sinh Quan Quỷ, Quan Quỷ sinh Phụ Mẫu, Phụ Mẫu sinh Huynh Đệ, Huynh Đệ sinh Tử Tôn. 2. Tương khắc của lục thân Tử Tôn khắc Quan Quỷ, Quan Quỷ khắc Huynh Đệ, Huynh Đệ khắc Thê Tài, Thê Tài khắc Phụ Mẫu, Phụ Mẫu khắc Tử Tôn.

III. Ý NGHĨA CỦA LỤC THẦN Trong dự đoán lục hào, mặc dù lục thần không thể chi phối cát hung của sự vật, nhưng nó có thể được sử 114

dụng để hỗ trợ dự đoán, đồng thời nó cũng là một thành phần không thể thiếu trong mỗi quẻ. Lục thần chủ yếu được sử dụng để phân loại, quy nạp sự vật, con người và tính chất bệnh tật, đặc điểm, trình độ, nguyên nhân. Trong dự đoán, việc lựa chọn ý nghĩa lục thần có thích hợp hay không liên quan đến chiều sâu và tính chính xác của dự đoán, vì vậy nhất định phải thuộc lòng ý nghĩa của lục thần. 1. Ý nghĩa của Thanh Long Thanh Long thể hiện xuất thân danh môn, cao quý, giàu có, hanh thông, tiền tài, cát tường, may mắn, vui vẻ, mâm cỗ, tiệc rượu, ẩm thực, thăm viếng thân hữu, nhân nghĩa, hiền từ, thanh cao, đoan trang, mỹ lệ, xinh đẹp, lộng lẫy, trang sức, trang điểm, hòa thuận, nhẹ dạ, thông minh, có lễ độ, bên trái, sinh dục, háo sắc, tình dục, đau nhức, ngứa ngáy,… 2. Ý nghĩa của Chu Tước Chu Tước thể hiện ấn tín, văn thư, văn chương, công hàm, giấy khen, văn kiện, ngôn từ, thông tin, tin tức, viễn thông, ca hát, văn tự, sách vở, lấy lời nói làm nghề nghiệp, lải nhải, nói nhiều, thiện ngôn, cười mỉm, xảo biện, đổ lỗi, khẩu thiệt, ăn nói, tranh cãi, tức giận, phẫn nộ, chửi rủa, quan phi, tố tụng, hỏa hoạn, vật dễ cháy, nóng rực, đỏ vàng, nói càn nói bậy, ồn ào, tạp âm, rên rỉ, chứng viêm, phía trước, học tập, giáo dục,… 3. Ý nghĩa của Câu Trần Câu Trần thể hiện quan tụng, công an, nha môn, lao ngục, cơ quan chính phủ, nhân viên công vụ, phòng làm việc, ruộng đồng, điền sản, kiến trúc, bất động sản, cây nông nghiệp, nội thất, bận tâm, liên lụy, liên quan, trung thực, ngu đần, chậm chạp, cứng nhắc, gượng gạo, 115

không quen, không dễ tỏ thái độ, trung ương, trung gian, sưng trướng, nhô ra, phù thũng, té ngã, ung thư,… 4. Ý nghĩa của Đằng Xà Đằng Xà thể hiện tham lam, giả dối, thiếu tin tưởng, nói không giữ lời, nghi kỵ, keo kiệt, dài dòng, khó chịu, khuyết thiếu, khó đối phó, kiện tụng, âm tà, tiểu nhân ám toán, vấn đề gai góc, phiền phức, triền miên nan giải, giữ chặt không thả, kinh dị, giật mình, bất ngờ, kinh khủng, phụ thuộc, tâm loạn, ít thấy, sợ hãi, không nhiều, lồi lõm, dây thừng, nhỏ và dài, uốn cong, mặt bên,… 5. Ý nghĩa của Bạch Hổ Bạch Hổ thể hiện quyết đoán, hung ác, dữ tợn, hào sảng, thù hận, hung tàn, gay gắt, hình phạt hình sự, tính khí nóng nảy, vũ lực, uy quyền, đao thương, đường đi, trắng trợn, không che dấu, bên phải, thương vong, tang sự, sắp sanh, máu huyết, sinh dục, tai nạn đổ máu, đánh nhau, bị thương, gãy xương, tai nạn xe cộ, thút thít, phẫu thuật, bệnh tật, y dược,… 6. Ý nghĩa của Huyền Vũ Huyền Vũ thể hiện bí mật, ám muội, trộm cắp, làm bậy, điềm gở, lừa gạt, âm mưu, xảo quyệt, dân cờ bạc, đầu cơ, gian trá, việc ngấm ngầm xấu xa, tên lừa đảo, bịp bợm, thất thoát, bất tri bất giác, nhà vệ sinh, dơ bẩn, phía sau, màu đen, tà khí, phong thấp, ẩm thấp, phiền muộn, dâm tà, dâm loạn, nội tâm, khó nói, nhục nhã,…

IV. VAI TRÒ CỦA THẾ ỨNG Hào Thế là trung tâm, là linh hồn của quẻ. Dự đoán vận khí, sức khỏe, tình trạng của bản thân, thông thường là lấy hào Thế để triển khai phán đoán. Hào Thế cũng là một tiêu điểm của dự đoán sự vật, thông thường lục 116

thân trì Thế không nên khắc Dụng thần, cũng không nên Tuần Không, Nguyệt phá. Hào Ứng là người, nơi chốn hoặc sự kiện tương ứng với hào Thế. Ngoài ra, hào Ứng cũng có thể là người không có quan hệ mật thiết, người đối lập, cộng sự, đối tượng yêu đương, điểm đến du lịch,… Tất cả các dự đoán đều phải xem ảnh hưởng của hào Thế đối với Dụng thần như thế nào, điều đó phản ánh lập trường và tâm thái của người xem đối với sự vật được dự đoán, đồng thời cũng biểu thị thông tin về giai đoạn phát triển của sự vật. Để giúp cho mọi người dễ dàng nắm bắt được yếu điểm của dự đoán, nay xin giới thiệu những ý nghĩa thường gặp của mỗi lục thân trì Thế như sau. 1. Tử Tôn trì Thế Dự đoán buôn bán, xuất hành, phiền não, đi công tác, sự vật là cát; dự đoán lên lớp, thi cử, quan chức, nữ đoán hôn nhân, bệnh tật của chồng thì không cát. Cát là tượng không lo lắng, ít bệnh, ít tai họa, vui vẻ, hạnh phúc; không cát là tượng phiền muộn, phờ phạc, tinh thần suy sụp. 2. Huynh Đệ trì Thế Dự đoán việc mua nhà, giành giải thưởng, văn thư, thư tín là cát; dự đoán buôn bán, tài vận, tai nạn, nam đoán hôn nhân thì không cát. Cát là tượng có nghĩa khí, nhiều bạn bè; không cát là tượng phá tài, hao tiền, không có duyên phận với phụ nữ. 3. Phụ Mẫu trì Thế Dự đoán lên lớp, thi cử, thư tín, văn thư, khế ước là cát; dự đoán bệnh tật con cái, sinh nở là không cát. Cát là

117

tượng tin vui dồn dập, giành được giải thưởng, tiền đến tìm ta; không cát là tượng vất vả, khó nhọc, tâm trạng phiền muộn. 4. Thê Tài trì Thế Dự đoán buôn bán, tài vận, vật bị mất, nam đoán hôn nhân là cát; dự đoán cha mẹ, trưởng bối, mua nhà, mua đất thì không cát. Cát là tượng tài vận hanh thông, vật bị mất có thể tìm lại được; không cát là tượng hợp đồng không thành, bạc phận với cha mẹ. 5. Quan Quỷ trì Thế Dự đoán chức tước, thăng chức, thuyên chuyển công tác, thi lên lớp, nữ đoán hôn nhân là cát; dự đoán bệnh tật, sự an nguy của anh em thì không cát. Cát là tượng được quan, được danh, tiền đồ như gấm lụa; không cát là tượng bệnh tật quấn lấy thân thể, vô cùng phiền não, tai nạn lâm thân. Trên đây chỉ là những phán đoán sự vật một cách đơn giản từ góc độ lục thân trì Thế. Dự đoán cấp độ cao thì phải xem ảnh hưởng của Nhật Nguyệt đối với hào Thế như thế nào, động tĩnh sinh khắc của các hào khác đối với Dụng thần ra sao, sau đó lại phải kết hợp hào vị, lục thần,… mới có thể đưa ra được những phán đoán chi tiết và chính xác. Các chương sẽ ra đều đặn… Mời quý dịch hữu chớ có vội vàng ! ===============

NGUYỆT HỢP VƯỢNG VÀ QUẺ LƯU NIÊN – KIÊM ĐOÁN

Sách Tăng San Bốc Dịch Bình Thích – Chương 3, trang 19. Ngày Bính Ngọ tháng Dần.

118

Một người cầm quẻ lưu niên này hỏi cát hung con cái, hơn 80 dự trắc sư lục hào nổi tiếng đều đoán hung, mà chỉ riêng mình Vương lão sư đoán cát. Trong sách đoán: Tử Tôn có Nguyệt hợp là vượng, tuy có hai tầng Phụ Mẫu đến khắc nhưng được Huynh động thông quan (tạo thành thế liên tục tương sinh), vì vậy không sao. Hỏi: Tử Tôn hợp vượng có thể hiểu, nhưng hai thổ đến khắc, một Huynh sao có thể thông quan? Hơn nữa Huynh Đệ ở mùa xuân hưu tù, Nguyệt phá, Nhật khắc, đã bị tổn thương gốc rễ, sao có thể thông quan? Tôi có thể hiểu như thế này hay không: Quẻ niên vận, khi xem vượng suy biểu thị tình trạng ngay lúc đó, ngay lúc gieo quẻ người không sao, như vậy tình trạng của Nguyên thần cho biết sẽ tốt đẹp, do đó mà không sao? Đáp: Quẻ này mấu chốt là Tử Tôn được Nguyệt hợp mà được vượng, nếu không biết thuyết Nguyệt hợp vượng thì rất khó lý giải điểm này. (PS: Lưu ý, Nguyệt hợp là vượng có khí-chủ về Lý, nhưng Nhật Hợp thì đa phần chủ về vướng chân,…-chủ về Tượng) Hỏi: Nguyệt hợp là vượng thì tôi có thể hiểu. Nhưng đoán con cháu là chuyện lâu dài, vẫn phải xem Nguyên thần chứ, có phải là tôi phân tích về Nguyên thần không thích hợp? Hơn nữa Dụng thần vượng tướng, nhưng Nguyên thần bị thương, đó cũng là không cát chứ?

119

Ở tình huống kiêm đoán, chỉ xem Dụng thần, những cái khác như Nguyên thần có thể lấy tượng phải không? Đáp: Đây không phải là tình huống đoán suốt đời của con cái, mà là đoán từ trong quẻ lưu niên. Vì vậy trọng điểm tại Dụng thần, nếu chỉ chuyên dự đoán bệnh tật của con cái thì Nguyên thần rất quan trọng. Hỏi: Thân kim động mà thông quan hào Phụ Mẫu khắc Tử Tôn, trong quẻ Phụ Mẫu lưỡng động mà chỉ có một Thân kim thông quan, xin hỏi một Thân kim này có thể thông quan hai thổ khắc thủy hay không? Đáp: Vấn đề này đã có người hỏi, đây là quẻ lưu niên, quẻ lưu niên lấy cát hung của hào Thế làm trung tâm, không phải là hào Tử Tôn, nhưng lúc đó người xem quẻ nói con ông ta sắp gặp hung, do đó mới bảo tôi phán đoán. Nếu quẻ này chỉ chuyên đoán cát hung của đứa con thì cách xem sẽ khác. Mức độ phán đoán của chuyên đoán và kiêm đoán là khác nhau. Chỉ cần Dụng thần có khí thì có thể chống lại thiên binh vạn mã, nhưng nếu hỏi cát hung của con cái mà Dụng thần vô khí, khắc nhiều sinh ít thì Nguyên thần cũng không thể cứu. (PS: Cái này có liên quan đến Dụng thần có gốc rễ, sẽ được trình bày ở bài sau.) Phán đoán của lần gieo quẻ thứ nhất và lần gieo quẻ thứ hai có sự khác biệt vi diệu. Một quẻ đoán nhiều việc, việc chính có sự khác biệt về mức độ so với việc kiêm hỏi. Hỏi xong một việc, lại hỏi một việc khác, phán đoán Dụng thần suy vượng của quẻ gieo ra cũng có sự khác biệt. THAM HỢP QUÊN SINH HAY BỊ HỢP KHÔNG SINH ?

Sách Tăng San Bốc Dịch Bình Thích – Chương 9, trang 36. Ngày Mậu Thân Tháng Thìn, xem cha bệnh gần, được Càn biến Phong Thiên Tiểu Súc.

120

Có người mang quẻ này đến hỏi ta rằng: “Bệnh gần gặp xung sẽ khỏi, quẻ này là quẻ lục xung, thế nhưng cha tôi bệnh rất nặng, nhờ ông xem giúp đến ngày nào sẽ khỏi bệnh?” Ta đáp rằng: “Quẻ này có tổng cộng ba hào Phụ Mẫu Thìn thổ, Mùi thổ, Tuất thổ, cần chọn hào vượng tướng làm Dụng thần. Nay có Phụ Mẫu Thìn thổ gặp Nguyệt kiến, vậy lấy hào Thìn thổ làm Dụng thần. Bệnh đang rất nặng, là vì Nhật thần xung Dần mộc khiến Dần mộc ám động khắc Thìn thổ.” Người này bèn hỏi: “Trong quẻ này Ngọ hỏa phát động, Dần mộc tuy ám động nhưng lại sinh ra Ngọ hỏa, để Ngọ hỏa sinh thổ. Trong sách xưa có viết: Kỵ thần và Nguyên thần cùng động, thì sẽ được hai sinh. Nhưng nay ông chỉ quan tâm đến Dần mộc khắc Thìn thổ, mà không nói đến Ngọ hỏa sinh Thìn thổ, là tại sao?” Ta bèn đáp rằng: “Ngọ hỏa tuy động hóa thành Mùi thổ, nhưng Ngọ lại hợp với Mùi, Ngọ hỏa tham hợp mà quên không sinh Thìn thổ, nên ở đây Thìn thổ chỉ bị khắc bởi Dần mộc, mà không được Ngọ hỏa tương sinh. Bởi vậy mà bệnh tình trầm trọng, cần đợi đến ngày Sửu xung mất Mùi thổ, khi đó Ngọ hỏa không còn hợp để tham hợp, nên sẽ sinh mộc, tai họa sẽ lui.” Quả nhiên đến ngày Sửu khỏi bệnh. Hỏi: Quẻ này Vương tiên sinh chủ yếu phân tích thuyết tham hợp quên sinh.

121

1. “Thiên kim phú” có nói: Tham sinh tham hợp, hình xung khắc hại đều vong. Thuyết tham hợp quên sinh dường như từ đây mà ra, nhưng ý nghĩa có sự trái ngược. 2. Hào biến có thể sinh khắc xung hợp hào động ra nó, mà hào động không thể sinh khắc xung hợp hào biến, vì vậy thực chất của động mà hóa hợp là hào biến hợp trú hào động, khiến cho nó không thể phát huy tác dụng, quẻ này hào động Ngọ hỏa là hào bị động. Mà theo phép tham hợp quên sinh thì hào động Ngọ hỏa là chủ động. 3. Một số phiên bản Tăng San Bốc Dịch khác có sự né tránh loại ý kiến này. Nói chung, tôi không nghi ngờ cách lý giải sâu sắc của thầy Vương đối với quẻ này, nhưng theo thiển ý của tôi thì “bị hợp không sinh” có vẻ thỏa đáng hơn là “tham hợp quên sinh”. Đáp: Bị hợp không sinh và tham hợp quên sinh chỉ là sự khác nhau về cách biểu đạt. Hợp là vướng chân, bị vướng chân thì không thể sinh Dụng, xung khai liền có thể. Dùng “tham hợp quên sinh” là bởi vì sách cổ lưu truyền như vậy, nó đã là danh từ chuyên môn. Đã ngấm vào tiềm thức nên khó có thể thay đổi, chỉ cần hiểu bản chất là được. DỤNG THẦN LƯỠNG HIỆN THÌ CHỌN DỤNG THẦN NHƯ THẾ NÀO ?

Ở ví dụ trên: Hỏi: Xem bệnh của cha, chọn Dụng thần Thìn thổ, tại sao không chọn Tuất thổ Nguyệt phá? Trong Lục Hào Nhập Môn, thầy có nói là nếu hai Dụng thần an tĩnh thì chọn Nguyệt phá, xin thầy giải thích. Đáp: Thông thường phải chọn hào Nguyệt phá. Nhưng quẻ này thuộc về một hào độc phát, vì vậy tiêu điểm ứng kỳ nằm ở hào độc phát, không dùng hào Nguyệt phá để xác định ứng kỳ. Điều này là vấn đề thần triệu cơ ở động. PS: Quẻ Độc phát rất quan trọng, có 4 ý nghĩa: cát hung, ứng kì, nguyên nhân tính chất của sự việc, xem việc này ứng việc khác. Nên có thể nói rằng độc phát có 1 ý nghĩa hết sức quan trọng, chỉ tiếc rằng ở Việt Nam hiện nay đa phần dùng quẻ giờ động tâm, mặc định là độc phát nên gần như rất ít có người hiểu hết ý nghĩa của Độc phát. Sẽ phải mất thời gian để người học dịch có thể hiểu được điều này. Trân trọng.

122

NGUYÊN THẦN TỰ THÂN VƯỢNG TƯỚNG Sách Tăng San Bốc Dịch Bình Thích – Chương 10, trang 38 Hỏi: Trong Tăng San Bốc Dịch có nói: Có năm loại Nguyên thần có thể sinh Dụng thần: 1. Nguyên thần vượng tướng, hoặc lâm Nhật Nguyệt, hoặc được Nhật Nguyệt hào động sinh phù. 2. Nguyên thần động hóa hồi đầu sinh, hoặc động hóa Tiến thần. 3. Nguyên thần gặp Trường Sinh, Đế Vượng tại Nhật thần. 4. Nguyên thần và Kỵ thần đều động. 5. Nguyên thần vượng động, nhưng gặp Tuần Không, hóa Tuần Không. Tôi có thắc mắc về câu đầu tiên. Ý nghĩa của câu này phải là ba trường hợp: Một là Nguyên thần tự thân vượng tướng. Hai là Nguyên thần lâm Nhật Nguyệt. Ba là Nguyên thần được Nhật Nguyệt hoặc hào động sinh phù. Hai trường hợp sau thì tương đối dễ hiểu. Nhưng ở trường hợp đầu tiên, tại sao Nguyên thần lại có thể tự thân vượng tướng được nhỉ? Tôi cho rằng người xưa luôn viết sách rất cẩn thận, tuyệt đối không viết ra những lời vô ích. Nhưng Dụng thần, Kỵ thần viết trong Tăng San cũng tương tự như vậy. Trong Bốc Phệ Chính Tông cũng nói giống như thế. Tất cả đều không có giải thích rõ ràng. Xin hỏi Vương lão sư, có phải là người xưa đã viết sai hay không, hay là trong đó vẫn còn giấu giếm huyền cơ? Đáp: Cách biểu đạt như vậy là hơi thiếu chặt chẽ. Ở đây, Nguyên thần tự thân vượng tướng là chỉ Nguyên thần lâm Nhật Nguyệt. (PS: Tức là có khí ở Nhật Nguyệt chứ không đánh giá ở hào Động đến sinh phù, nếu khắc thương là hưu tù, nhưng gặp hào động đến sinh là được sinh – cho nên mới có thuyết Tuyệt xứ phùng sinh là vậy)

1 VÍ DỤ VỀ KHÔNG VONG Một quẻ của Vương Hổ Ứng lão sư: Ngày Bính Ngọ tháng Dần, học trò của tôi ở Nhật Bản muốn đến Trung Quốc, nhờ tôi dự đoán cát hung, được Giải biến Quy Muội.

123

Lấy hào Thế làm Dụng thần. Hào Thế Nguyệt khắc Nhật sinh, suy vượng tương đương. Hào sơ Dần mộc Huynh Đệ lâm Chu Tước động mà khắc Thế, hào sơ là cước lực, giữa đường đến Trung Quốc tất có chuyện khẩu thiệt, Dần mộc Không mà không khắc hào Thế, không phải là mình và người ta phát sinh khẩu thiệt, mà là giữa đường gặp phải người khác phát sinh khẩu thiệt. Hào Thế Tài bị khắc, tất có đồ vật bị tổn hại. Kết quả: Khi ngồi taxi từ sân bay vào trong thành phố, tài xế taxi xảy ra khẩu thiệt với người khác, trong thời gian ở Trung Quốc laptop mang theo đã bị hỏng. Thầy nói Dần mộc Không mà không khắc hào Thế, phải là mình và người ta phát sinh khẩu thiệt, mà là giữa đường gặp phải người khác phát sinh khẩu thiệt. Hỏi: Tôi chưa hiểu chỗ Huynh Đệ Không mà không khắc hào Thế, hiện tại Không không khắc hào Thế, nhưng xuất Không thì khắc hào Thế chứ? Đáp: Huynh Đệ lâm Chu Tước động, biểu thị khẩu thiệt, khắc Thế thì có khả năng phát sinh xung đột với mình, nhưng Không Vong nên không thể khắc, Không lại biểu thị sợ bóng sợ gió, vì vậy không phải là chuyện của mình. (PS: ví dụ về Không Vong có rất nhiều, không hẳn cứ hào Thế Không Vong là người hỏi không thật tâm, loạn tâm như 1 số group Kinh Dịch đang dùng, Không Vong chủ về tượng, còn áp dụng như thế nào thì đã có trong sách).

124

1 VÍ DỤ VỀ ỨNG KỲ Một quẻ của Vương Hổ Ứng lão sư: Ngày Quý Mão tháng Sửu, xem bệnh của vợ uống thuốc có khỏi được không, được quẻ Lâm biến Thái:

Ta đoán rằng: Hào Huynh Đệ động mà hóa Tiến thần, dù có thuốc tiên cũng khó cứu, người vợ ắt sẽ chết vào ngày Giáp Thìn. Trong quẻ này hào Huynh Đệ động, gặp Nguyệt kiến mà hóa Tuần Không, nhưng cũng không thể cho rằng là không tiến. Hỏi: Thê Tài Nguyệt khắc, Tử ở Nhật, bệnh bất trị, theo thầy thì có thông tin ung thư hay không? Kỵ thần độc phát, lâm Nguyệt phát động khắc Dụng, tượng không thể cứu chữa, sách dùng Tiến thần, ở đây hóa ra Thìn thổ là Tuần Không phải chăng là chủ ứng kỳ? Bởi vì Thìn cũng là Mộ khố của Dụng thần? Đáp: Khi phán đoán, trước tiên phải xem căn cơ của Dụng thần, sau đó lại xem cát hung. Dụng thần lâm hào Ứng, Ứng là y dược, chứng tỏ đã uống thuốc. Nhưng Dụng thần Nguyệt khắc, Nhật không sinh phù, Tử ở Nhật, đồng thời Huynh Đệ phát động khắc Dụng thần, Kỵ thần độc phát, thần triệu cơ ở động, nhất định không tốt đẹp. Huynh Đệ Sửu thổ lâm Nguyệt nhập hào có thể ứng ngay trong tháng đó, Huynh Đệ hóa Không tạm thời không thể khắc, cần phải xuất Không mới có thể khắc được Tài, vì vậy phải ứng tại ngày Thìn, đương nhiên ngày Thìn cũng là lúc Tài nhập Mộ. Khi phán đoán cát hung của một vấn đề hay phán đoán ứng kỳ, không phải chỉ xem một điểm mà phải kết hợp nhiều tổ hợp thông tin, nếu không thì tỷ lệ chính xác không cao. (PS: Ứng kỳ là 1 chương khó, đòi hỏi phải luyện tập nhiều, mình đã có 1 bài viết về Ứng kỳ, xem tại đây)

125

Trân trọng @@@@@@@@@@

Ứng dụng 12 cung trường sinh Hỏi: Thầy nói “Người xưa đã coi 12 cung trường sinh là căn cứ để phán đoán cát hung, trên thực tế đó là một nhận thức sai lầm. Vai trò của 12 cung trường sinh là dùng để thể hiện “tượng”, việc sử dụng để xem cát hung chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ có một hai phần trăm mà thôi. “ 1. Xin thầy nêu ra ví dụ 12 cung trường sinh chủ cát hung cho kẻ hậu học được tăng thêm kiến thức. Hóa Tuyệt hóa Mộ thì tôi đã gặp, còn Trường Sinh Đế Vượng thì chưa. 2. Đối với Sinh Vượng Mộ Tuyệt, cho dù không chủ cát hung của sự việc, nhưng nó có thể ảnh hướng đến cát hung hay không? Ví dụ như xem tiền có tiền, đáng lẽ là được 100 nguyên, có phải là bởi vì hào Tài nhập Nhật Mộ mà chỉ được 80 nguyên? Hay là bởi vì hào Tài gặp Trường Sinh mà lại được 120 nguyên? 3. Đối với Sinh Vượng Mộ Tuyệt, ví dụ chủ cát hung sự việc tuy không nhiều, nhưng quẻ có ứng kỳ sự việc tại Sinh Vượng Mộ Tuyệt lại không ít, bởi lẽ “cát đoán ứng cát, hung đoán ứng hung”, đây có phải là mặt trái của Sinh Vượng Mộ Tuyệt đối với vượng suy của hào hay không, cát hung của sự việc cũng phải có ảnh hưởng chứ? Đáp: Tình huống mười hai cung trường sinh chủ cát hung thường thể hiện nhiều trong quẻ độc phát. Trường Sinh, Mộc Dục, Đế Vượng chủ cát; Tử, Mộ, Tuyệt chủ hung. Trong đó Mộ là ít xấu nhất, phải phối hợp với suy vượng của Dụng thần, Tử Tuyệt tương đối đáng sợ, kể cả khi Dụng thần vượng cũng không tốt. Vũ Phác: Tất cả đều không thoát khỏi hỷ kỵ của Dụng thần là lẽ đó. Lại nói Độc phát là 1 yếu tố rất quan trọng trong dự đoán lục hào. Mời đọc lại Đáp Nghĩa phần 2.

Phản ngâm, phục ngâm Hỏi: Trong Tăng San Bốc Dịch Bình Thích nói: “Quẻ có quẻ biến, hào có hào biến. Quẻ biến, nội ngoại động mà phản ngâm, thuộc cùng một quẻ. Như quẻ Càn biến quẻ Khôn là vậy.”

126

Trong Bốc Phệ Chính Tông lại là Càn Tốn hỗ biến là quẻ biến phản ngâm. Như vậy rốt cuộc quẻ biến phản ngâm định nghĩa như thế nào? Đáp: Quẻ biến phản ngâm không có tỷ lệ ứng nghiệm cao bằng hào biến phản ngâm. Quẻ biến phản ngâm có hai phương diện. Một là xem từ quẻ tiên thiên, hai là từ quẻ hậu thiên, hễ là quẻ đối lập về phương vị chính là quẻ biến phản ngâm. Càn biến Khôn là phản ngâm, bởi vì Càn Khôn đối lập, Khảm biến Ly cũng vậy, đây đều là xem từ quẻ tiên thiên. Quẻ hậu thiên, Càn đối ứng Tốn, bởi vì Tây Bắc và Đông Nam đối lập, vì vậy Càn biến Tốn cũng là phản ngâm. Hỏi: Quẻ biến phản ngâm và hào động phản ngâm, có phải đều biểu thị tình trạng lặp đi lặp lại hay không? Tăng San có đề cập đến quẻ biến hồi đầu khắc, loại tình huống này có phán đoán là hung tượng hay không? Đáp: Quẻ biến phản ngâm chỉ là biểu thị sự việc lặp đi lặp lại mà thôi, hào biến phản ngâm lại chủ thông tin không tốt đẹp. Quẻ biến hồi đầu khắc thường chủ hung.

Sửu hoá Mùi là hoá Tiến thần Hỏi: Sửu hóa Mùi có phải là hóa Tiến thần? Tuất hóa Sửu là hóa Tiến thần hay là Thoái thần? Đáp: Sửu hóa Mùi không phải là Tiến thần, bởi vì ở giữa cách Thìn thổ, là quan hệ tương xung, có điều là trong lục hào cũng không tồn tại Sửu hóa Mùi thổ, vĩnh viễn sẽ không xuất hiện tổ hợp này. Tuất hóa Sửu là Tiến thần.

Dụng thần vô căn – quá nhược Hỏi: Có một vấn đề nữa là phân biệt Dụng thần vô căn và Dụng thần quá nhược, hai cái này tôi luôn mập mờ, mong thầy chỉ giáo ? Đáp: Dụng thần Nguyệt khắc Nhật không sinh thì có thể nói là vô căn, mà Nhật khắc Nguyệt không sinh phù cũng có thể là vô căn. Tình huống quá nhược nhất định phải là Nhật Nguyệt đồng thời khắc Dụng thần. Khắc thần trong quẻ lại hiện nhiều. Khắc thần chỉ có một thì hưu tù là hung, không thể là quá nhược. Trân trọng

127

DÙNG THUỐC ĐIỀU TRỊ BỆNH Th7 25

Dùng thuốc gì để điều trị và thuốc có tốt không ? Vẫn nhiều người dự đoán vẫn còn mơ hồ về dùng thuốc, quan trọng hơn là cách chuyển đổi lục thân. Không phải lúc nào Tử Tôn cũng là thuốc, phải biết vận dụng, nếu dụng thần là Quan Quỷ Trì Thế là bệnh thì Tử Tôn mới có ý nghĩa là thuốc, nhưng nếu nếu xem bệnh cho chồng thì Tử Tôn là Kị thần vậy lấy 100% Tử Tôn là thuốc liệu có đúng ? điều này không nên cứng nhắc, đôi khi phải dùng hào Ứng làm thuốc, nhiều khi Tử Tôn chỉ có ý nghĩa là tượng, còn tuỳ thuộc trường hợp cụ thể mà vận dụng. Trong dự đoán sẽ có nhiều trường hợp cụ thể, mời đọc trong quyển Lục Hào Tật Bệnh Dự Trắc Học, xem tại đây.

KHÁM BỆNH VÀ DÙNG THUỐC Khám bệnh thì lấy hào Ứng làm y. Tùy vào nội dung được hỏi khác nhau, hào Ứng có thể là thầy thuốc, cũng có thể là bệnh viện, cũng có thể là thuốc, cũng có thể là phương pháp điều trị,… Tự mình đến đoán thì hào Thế là người bệnh; đoán hộ người khác thì Dụng thần là người bệnh. Dụng thần suy thì hào Ứng nên vượng tướng sinh hợp Dụng thần. Quan Quỷ trì Thế vượng tướng thì hào Ứng nên lâm Tử Tôn khắc Thế. Hào Ứng Không Phá Mộ Tuyệt, hoặc động hóa hồi đầu khắc, động mà hóa ra Quan Quỷ, hóa Kỵ thần thì tất chẳng phải lương y, không thể nhờ họ điều trị. Nếu nhờ họ điều trị thì chắc chắn bất lợi cho người bệnh. Hào Tử Tôn có thể đại diện thầy thuốc, cũng có thể đại diện thuốc, coi tình hình biến hóa trong quẻ mà định. Quẻ không có Tử Tôn thì không gặp được lương y; Phụ vượng phát động thì tìm thầy không thành; Tử Tôn lâm Không Phá Mộ Tuyệt thì hiệu quả không tốt. Phụ Huynh cùng động thì tìm thầy lại cát. Quan Phụ đều tĩnh, Tử lâm hào Ứng phát động thì có thể nhờ lương y. Ứng lâm Tử động khắc Thế thì thuốc có hiệu nghiệm. Thế khắc hào Ứng, Ứng lâm Tử Tôn thì thầy thuốc có tiếng tăm nhưng thuốc không có công hiệu. Ứng lâm Quỷ động thương Thế thương Dụng thì nhất định là lang băm. Tử động hóa Phụ thì dùng thuốc có sai lầm. Nhật thần hào

128

động xung khắc Tử Tôn thì thuốc không tinh, hiệu quả kém. Tử hóa Tử, lưỡng Tử phát động thì thay đổi thuốc, thầy thuốc sẽ có hiệu quả. Thế phục dưới Quan gặp Tử động thì thuốc tuy tốt nhưng bệnh khó trừ gốc rễ. Tử động hóa Quan Quỷ thì bởi vì dùng thuốc mà thêm bệnh tật. Tử Quỷ đều Không, Tử Tôn lâm Nhật vượng tướng hoặc trì Thế thì không thuốc mà khỏi bệnh. Tử Quỷ đều động thì dùng cả dược vật liệu pháp (dùng thuốc) và tâm lý liệu pháp. Tử Tài lưỡng động thì bệnh khó điều trị. Tử suy Phụ động sinh hợp Thế trì Thế thì nên dùng khí công điều trị.

TÌM THẦY THUỐC Đoán thầy thuốc là ai thì lấy Tử Tôn, Nguyên thần làm Dụng. Tử Tôn, Nguyên thần thuộc kim, hoặc Nguyên thần là kim thì nên tìm ở phía Tây, người có họ mang chữ kim (金) bên cạnh. Thuộc mộc thì nên tìm ở phía Đông, người có họ mang thảo (草) mộc (木) bên cạnh. Thuộc thủy thì nên tìm ở phía Bắc, người có họ mang chấm thủy (氵) bên cạnh. Thuộc hỏa thì nên tìm ở phía Nam, người có họ mang nhật (日) hỏa (火) bên cạnh. Thuộc thổ thì nên tìm người có họ mang chữ thổ (土) bên cạnh.

DÙNG THUỐC LOẠI NÀO Tử Tôn, Nguyên thần thuộc kim thì nên phẫu thuật, châm cứu. Thuộc thủy thì nên dùng thuốc thang, truyền nước biển, tiêm. Thuộc mộc thì nên dùng thảo dược. Thuộc hỏa thì nên nướng, giác hơi, xạ trị. Thuộc thổ thì nên dùng thuốc tán, thuốc bột. Lại có lấy ngũ hành mà phân biệt ngũ vị của thuốc. Kim là thuốc có vị cay, thuốc tê; Mộc là thuốc có vị chua; Thủy là thuốc có vị mặn; Hỏa là thuốc có vị đắng; Thổ là thuốc có vị ngọt.

VÍ DỤ Ví dụ : Ngày Giáp Thìn tháng Tị, một người phụ nữ tìm bà đồng xem bệnh, hiệu quả ra sao? Được Trạch Phong Đại Quá biến Thủy Thiên Nhu.

129

Hào Thế là người xin đoán, hào Ứng là bà đồng. Hào Thế vượng tướng, Ứng nên khắc Thế; hào Thế hưu tù, Ứng nên sinh Thế. Quẻ này hào Thế Nguyệt phá, lại bị Nhật khắc, nhập Mộ ở Nhật, rất hưu tù. Tuy rằng động mà hóa hồi đầu sinh, nhưng Thế giống như cây không rễ, sinh phù bất khởi, không phải là hóa hồi đầu sinh mà là hóa Quỷ. Hào Ứng phát động khắc Thế, tìm bà đồng xem bệnh không có hiệu quả. Hào Thế hưu tù, Tuyệt ở Nguyệt, nhập Mộ ở Nhật, Nguyên thần Quan Quỷ Dậu kim lâm Câu Trần, là thông tin ung thư. Nguyên thần tại hào 3 và hào 5, hào 3 là bộ phận sinh dục, ở phụ nữ là tử cung, là ung thư tử cung. Hào 5 là ngực, phổi, kim cũng là phổi, là ung thư phổi. Thực tế cô này đã phẫu thuật ung thư tử cung, nhưng lại di căn sang phổi. Cô sốt ruột chữa bệnh nên không nghe lời khuyên, vẫn tìm đến bà đồng xem bệnh. Sau khi uống thuốc của bà ta, cổ họng khô khát, hằng ngày chảy máu mũi nên đành phải từ bỏ uống thuốc. Trân trọng @@@@@@@@@

QUY LUẬT CỦA LỤC HÀO ĐOÁN BỆNH Th8 02

Người xưa thường dùng ngũ hành của Quan Quỷ để phán đoán chứng bệnh, “hỏa thuộc tâm kinh, phát nhiệt, khô cổ họng, khô miệng; thủy thuộc thận, ớn lạnh, đổ mồ hôi trộm, di tinh; kim phổi, mộc gan, thổ là bệnh xâm nhập tỳ vị”. Nhưng khi ứng dụng trong thực tế, tỷ lệ ứng nghiệm tương đối thấp, hoàn toàn không thể làm khuôn mẫu để đoán bệnh, càng không thể thực sự mang lại tác dụng chỉ đạo dự đoán. Thực

130

tiễn chứng minh dự đoán chứng bệnh nên lấy Dụng thần hỉ kỵ, sinh khắc xung hợp… để phân tích phán đoán. Xin trình bày các quy luật thường gặp biểu thị thông tin bệnh tật cùng 1 số ví dụ diễn giản. Chi tiết các quy luật xin mời xem trong quyển Lục Hào Tật Bệnh Dự Trắc Học xem tại đây. Dụng thần bị thương, lấy Dụng thần làm bệnh

Ví dụ: Ngày Canh Ngọ tháng Dần, một phụ nữ lớn tuổi đoán niên vận, được Thiên Phong Cấu.

Trong quẻ niên vận đã bao hàm thông tin thân thể. Hào Thế tại hào sơ lâm Bạch Hổ bị Nguyệt khắc thương, Bạch Hổ là bệnh, hào sơ là bàn chân, chính là trên bàn chân có bệnh. Trên thực tế: Bàn chân tê dại không có sức lực. Kỵ thần động đến khắc Dụng, lấy Kỵ thần làm bệnh

Ví dụ: Ngày Nhâm Thìn tháng Tý, một người đoán bệnh của cha, được Thủy Thiên Nhu biến Tốn Vi Phong.

131

Lấy Phụ Mẫu làm Dụng thần. Phụ Mẫu Tị hỏa phục tại hào 2 lâm Thanh Long, hào 2 là bộ phận sinh dục, Thanh Long là sắc, chủ bệnh về bộ phận sinh dục. Kỵ thần lâm Nguyệt đến khắc, trong quẻ Kỵ thần lưỡng động lại đến khắc, Kỵ thần là thủy chủ nước tiểu, thủy bị hợp mà khắc Dụng thần, là bệnh tiểu không ra, vì vậy là bệnh về tiền liệt tuyến. Kỵ thần vượng tướng, Dụng thần hưu tù, là ung thư. Trên thực tế: Bị ung thư tuyến tiền liệt. Dụng thần Không mà không được Nguyên thần đến sinh, lấy Dụng thần làm bệnh

Ví dụ: Ngày Quý Mùi tháng Dần, nữ đoán bệnh con trai, được Địa Lôi Phục.

Lấy Tử Tôn làm Dụng thần. Tử Tôn Dậu kim tại hào 6 Không Vong, Không mà không được Nguyên thần đến sinh, hào 6 là đầu, Không Vong chủ đầu óc trống rỗng, Bạch Hổ chủ đa động (tăng động, hội chứng ADHD), điên cuồng.

132

Trên thực tế: Là chứng bệnh điên dại. Dụng thần gặp Bệnh địa, hoặc lấy Dụng thần làm bệnh hoặc lấy Bệnh địa làm bệnh

Ví dụ: Ngày Canh Thân tháng Sửu, một nữ đoán bệnh, được Thiên Lôi Vô Vọng biến Hỏa Lôi Phệ Hạp.

Lấy hào Thế làm Dụng thần. Hào 5 Quan Quỷ Thân kim độc phát, là Bệnh địa của Dụng thần, độc phát có thể biểu thị nguyên nhân, Bệnh địa cũng là bệnh, hào 5 kim lâm Câu Trần là xương cổ tăng sinh. Quả nhiên: Có xương cổ tăng sinh. Dụng thần phục tàng, bị áp chế, có thể lấy hào Phi làm bệnh hoặc lấy Phục thần làm bệnh

Ví dụ: Ngày Bính Thìn tháng Dậu, nam đoán bệnh con gái, được Sơn Phong Cổ biến Cấn Vi Sơn.

133

Lấy hào Tử Tôn làm Dụng thần. Tử Tôn lâm Huyền Vũ, chủ tâm trạng rầu rĩ, Dụng thần phục dưới hào 5 bị Phi thần khắc, bị hào động khắc, hào 5 là đường đi, chủ sợ ra ngoài. Phụ Mẫu Hợi thủy khắc, thủy chủ ban đêm, là đêm trọng ngày khinh. Trên thực tế: Năm 2004 đoán, cuối năm 2003 bị bệnh tinh thần. Nghiêm trọng vào giờ Hợi giờ Tý ban đêm, không thể ngồi xe, cảm thấy sợ hãi. Nhật Nguyệt khắc Dụng, hào có ngũ hành tương đồng với Nhật Nguyệt nhập quẻ là bệnh

Ví dụ: Ngày Ất Hợi tháng Dần, một người già đoán niên vận, được Phong Hỏa Gia Nhân biến Ly Vi Hỏa.

Trong quẻ niên vận đã bao hàm thông tin thân thể. Hào Thế bị Nguyệt khắc thương, ngũ hành của Nguyệt là mộc, Mão mộc nhập quẻ, lâm hào sơ và hào 6. Hào sơ là bàn chân, hào 6 là vai, cánh tay, hào Thế tại hào 2 bị khắc, hào 2 là chân, quẻ tại cung Tốn cũng có thông tin chân, mộc chủ phong hàn, Thanh Long chủ đau nhức, Huyền Vũ chủ phong hàn, phong thấp, vì vậy đi đứng nhất định không thuận tiện, có viêm quanh khớp vai. Trên thực tế: Đúng là như vậy. Dụng thần nhập Mộ, lấy hào Mộ khố đó làm bệnh hoặc lấy Dụng thần làm bệnh

Ví dụ: Ngày Giáp Ngọ tháng Thìn, nữ đoán bệnh của chồng, được Thiên Sơn Độn biến Trạch Sơn Hàm.

134

Lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Mộ khố Tuất thổ độc phát, Dụng thần nhập Mộ, Tuất thổ tại ngoại quái phát động, thổ ở ngoại quái chủ da, là bệnh ngoài da. Trên thực tế: Đúng là bệnh ngoài da. Dụng thần Nguyệt phá, lấy Dụng thần làm bệnh hoặc lấy Nguyệt kiến làm bệnh

Ví dụ: Ngày Tân Dậu tháng Tuất, nam đoán bệnh của vợ, được Sơn Lôi Di.

Lấy hào Thê Tài làm Dụng thần. Thê Tài lưỡng hiện, lấy hào Nguyệt phá làm Dụng. Thê Tài Thìn thổ bị Nguyệt là Mộ khố của Tử Tôn xung phá, lại tại hào 3, Mộ khố của Tử Tôn là tử cung, hào 3 cũng là tử cung, Thìn thổ lại là Mộ khố của hào thai Tử Tôn, vì vậy là vấn đề tử cung.

135

Nguyên thần lâm Câu Trần là ung thư. Dụng thần Nguyệt phá sợ Thực Phá, Nhật mặc dù hợp mà giải phá, nhưng Nhật là Quan Quỷ, biểu thị bệnh tật triền thân không thể rời. Trên thực tế: Đã bị ung thư tử cung, tháng Thìn qua đời. Dụng thần hoặc Nguyên thần quá vượng, không có khắc tiết cũng là bệnh

Ví dụ: Ngày Bính Thìn tháng Sửu, nữ đoán bệnh bản thân (bị bệnh đã lâu), được Hỏa Trạch Khuê biến Sơn Thiên Đại Súc.

Lấy hào Thế làm Dụng thần. Hào Thế được Nhật Nguyệt sinh phù là vượng tướng, hào Thế lại động hóa hồi đầu sinh, Nguyên thần Sửu thổ động hóa Tiến thần đến sinh, hào 5 lại có một Nguyên thần, Dụng thần quá vượng cho nên không cát. Hào Thế Tử Tôn Dậu kim tại hào 4, hào 4 là ngực, lâm Bạch Hổ chủ bệnh, lâm kim là phổi, Tử Tôn là vú, hai chỗ này không tốt. Bệnh do quá vượng, nhất định là bệnh nguy hiểm, chắc chắn là ung thư. Trên thực tế: Năm Bính Tuất bị ung thư vú, sau khi phẫu thuật đã chuyển đến phổi. Nguyên thần bị thương, lấy Nguyên thần làm bệnh

Ví dụ: Ngày Canh Dần tháng Tuất, nữ đoán bệnh con trai, được Thủy Lôi Truân.

136

Lấy Tử Tôn làm Dụng thần. Dụng thần Dần mộc được Nhật tỉ phù là vượng tướng, Nguyệt không sinh không khắc, nhưng Nguyên thần bị Nguyệt khắc thương. Trong quẻ Nguyên thần lưỡng hiện, một tại hào 6, một tại hào sơ, Nguyên thần là thủy chủ trí tuệ, hào sơ là tâm sự chủ tư duy, hào 6 là đầu cũng chủ tư duy, vì vậy là gặp trở ngại về trí lực. Phụ Mẫu Thân kim lâm Chu Tước ám động khắc Dụng thần, kim là âm thanh, Chu Tước chủ năng lực nói, khả năng nói chuyện cũng có vấn đề. Trên thực tế: Năng lực thấp kém, không nói được. Cừu thần động đến khắc Nguyên thần, lấy Nguyên thần làm bệnh

Ví dụ: Ngày Giáp Tuất tháng Hợi, nữ đoán bệnh của chồng, được Hỏa Lôi Phệ Hạp biến Sơn Trạch Tổn.

Lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Quẻ tại cung Tốn là đùi, hào 2 Huynh Đệ Dần mộc là Cừu thần phát động hóa Tiến thần khắc Nguyên thần, hào 2 là chân, mộc chủ đau nhức, vì vậy là chân có bệnh.

137

Trên thực tế: Là đau chân. Nguyên thần Nguyệt phá, lấy Nguyên thần làm bệnh hoặc lấy Nguyệt kiến làm bệnh

Ví dụ: Ngày Ất Mão tháng Hợi, nữ đoán bệnh bản thân, được Hỏa Thiên Đại Hữu.

Lấy hào Thế làm Dụng thần. Nguyên thần Nguyệt phá tại hào 6, là bị thủy xung phá, thủy đại diện máu, phá mà không thể sinh hào Thế, lại ngoại quái là Ly, vì vậy phán đoán là thiếu máu. Lại hào Thế là thổ, tại hào 3 bị Nhật khắc, thổ tại hào 3 là dạ dày, dạ dày cũng không tốt. Trên thực tế: Thiếu máu, có viêm dạ dày. Nguyên thần gặp Bệnh địa, hoặc lấy Nguyên thần làm bệnh hoặc lấy Bệnh địa làm bệnh

Ví dụ: Ngày Kỷ Hợi tháng Sửu, một người đoán bệnh con trai, được Thiên Thủy Tụng biến Hỏa Địa Tấn.

138

Lấy Tử Tôn làm Dụng thần, Tử Tôn lưỡng hiện, lấy hào Tử Tôn Thìn thổ phát động làm Dụng thần. Dụng thần Không Vong, không được Nguyên thần đến sinh, Nguyên thần tại hào 3, hào 4 bị Nhật khắc thương, lại Thân kim phát động, Nguyên thần ở Bệnh địa, vì vậy tất nhiên lấy Nguyên thần làm bệnh. Hào 3, hào 4 là tim, hỏa lại là tim, vì vậy là tim không tốt. Hào 2 là thai vị, Nguyên thần lại là Thai địa, hào thai, thai vị chủ tính chất bẩm sinh, vì vậy là bệnh tim bẩm sinh, hóa ra Nguyên thần Không Vong, Không Vong là trống rỗng, khuyết thiếu, vì vậy là khiếm khuyết tâm nhĩ bẩm sinh. Nguyên thần Không mà không thể sinh Dụng thần, lấy Nguyên thần làm bệnh

Ví dụ: Ngày Giáp Thân tháng Tuất, nữ đoán bệnh bản thân, được Trạch Thiên Quải biến Hỏa Thiên Đại Hữu.

Lấy hào Thế làm Dụng thần. Hào Thế được Nguyệt sinh Nhật phù là vượng tướng, nhưng không nên hóa ra Nguyên thần Không Vong, hào 6 Nguyên thần cũng Không không thể sinh Dụng thần. Thổ tại hào 5, hào 6 là mũi, hào Thế kim là hệ hô hấp, vì vậy là mũi có vấn đề. Trên thực tế: Là mũi không ngửi thấy mùi, rất phiền não. Nguyên thần bị Hợp trú, bởi vì tham hợp quên sinh mà không thể sinh Dụng, lấy Nguyên thần làm bệnh

Ví dụ 1: Ngày Đinh Mùi tháng Tị, nữ đoán bệnh bản thân, được Lôi Trạch Quy Muội biến Lôi Thiên Đại Tráng.

139

Lấy Thế làm Dụng thần. Hào Thế được Nguyệt sinh Nhật phù, động hóa Tiến thần. Dụng thần và Nguyên thần đều không bị khắc, dường như không có bệnh tật. Xem kỹ thì phát hiện trong quẻ hai thổ, lại hóa ra một thổ, kết hợp với Nhật thần tổng cộng là bốn thổ. Mà Nguyên thần hào hỏa trong quẻ lưỡng hiện, Nguyệt cũng hỏa, đây là quá vượng, Nhật xung Dụng thần, hóa Tiến thần càng nhanh hơn, vật cực tất phản, là hỏa nhiều sinh thổ mà thành bệnh. Thế lâm Xà, tượng phiền muộn. Lại hào 4 Ngọ hỏa hợp Nhật, lấy hào này phán đoán bệnh tật. Hào 4 là hào vị tim, hỏa lại là tim, vì vậy là bệnh tim. Quá vượng thì xem ngược lại, là nhịp tim quá chậm, Nguyên thần bị hợp vướng chân cũng biểu thị tim đập chậm. Trên thực tế: Đúng là nhịp tim quá chậm. Nguyên thần hóa Không, hóa Phá, hóa Thoái, lấy Nguyên thần làm bệnh

Ví dụ: Ngày Giáp Thân tháng Dần, một phụ nữ đoán bệnh, được Trạch Thiên Quải biến Đoài Vi Trạch.

140

Lấy hào Thế làm Dụng thần. Hào Thế Nguyệt không khắc, Nhật tỉ phù là vượng tướng. Nguyên thần Thìn thổ tại hào 3 phát động đến sinh, nhưng động mà hóa thoái, đồng thời lại bị Nguyệt khắc thương, vì vậy lấy Nguyên thần làm chứng bệnh. Hào 3 là đùi, Quỷ tại hào 2 là chân, thổ chủ da, lâm Câu Trần chủ sưng trướng, là chi dưới sưng phù. Thìn thổ là thủy khố, là không thể loại bỏ nước trong cơ thể mà sưng phù. Thực tế: Đúng là như vậy. Có hào Động hóa ra Quan Quỷ, hoặc lấy hào động làm bệnh hoặc lấy hào Quan Quỷ hóa ra làm bệnh

Ví dụ: Ngày Nhâm Ngọ tháng Tý năm Ất Hợi, nam đoán bệnh của cha, được Thủy Hỏa Ký Tế biến Phong Lôi Ích.

141

Lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng thần. Dụng thần Phụ Mẫu Thân kim hưu tù, Tử ở Nguyệt kiến, bị Nhật thần Ngọ hỏa khắc thương, lại trị Tuần Không, bệnh lâu gặp Không thì chết. Quẻ thuộc cung Khảm, Khảm chủ thận, bàng quang. Hào 3 Huynh Đệ Hợi thủy động mà hóa ra Quan Quỷ Thìn thổ, thủy chủ nước tiểu, hóa ra Quan Quỷ, tất nhiên là bệnh, Thìn thổ là thủy khố, là bộ phận tích trữ nước tiểu, bệnh tại bàng quang. Dụng thần lâm Câu Trần chủ khối u, vì vậy là ung thư bàng quang. Hào 5 Quan Quỷ Tuất thổ là Nguyên thần không lấy để đoán bệnh, hào 2 Quan Quỷ Sửu thổ là Mộ khố của Dụng thần, lâm Thanh Long, hào 2 chủ bộ phận sinh dục, Thanh Long chủ đau nhức, khi tiểu tiện không dễ chịu. Thê Tài Nguyệt phá không hiện trên quẻ, Tài là ẩm thực, người bệnh ăn uống giảm nhiều. Hào 6 Huynh Đệ Tý thủy lâm Nguyệt kiến hóa Tử Tôn Mão mộc, Huynh Đệ chủ tốn kém tiền thuốc, Tử Tôn chủ y dược, chứng tỏ đã tốn không ít tiền điều trị. Trong quẻ hào Huynh Đệ lưỡng động, Huynh động bệnh khó khỏi, hào 6 Huynh Đệ Tý thủy lâm Bạch Hổ phát động, Tý thủy là Tử địa của Dụng thần, Bạch Hổ chủ tang, Huynh chủ hiếu (孝: hiếu thảo, chịu tang, tang phục), đề phòng năm Tý bất lợi. Trên thực tế: Tháng Tị năm Bính Tý, cha qua đời vì ung thư bàng quang. Ứng tháng Tị vì gặp hình khắc. Có hào Động hóa ra Kỵ thần, hoặc lấy hào động làm bệnh hoặc lấy hào biến hóa ra Kỵ thần làm bệnh

Ví dụ: Ngày Canh Thân tháng Mão, nữ đoán bệnh bản thân, được Sơn Địa Bác biến Phong Thủy Hoán.

142

Lấy hào Thế làm Dụng thần. Thế lâm Câu Trần Tử Tôn hóa Quan Quỷ. Tử Tôn là ngũ quan (tai, mắt, mũi, lưỡi và da), hào 5 thủy có thể là cổ họng, động hóa Tuyệt, Tuyệt tại hỏa, thủy Tuyệt là khô họng, hỏa chủ viêm, vì vậy có viêm họng, miệng khát khô. Hào 2 Quan Quỷ Tị hỏa động mà Tuyệt hào Thế, lại hóa ra Kỵ thần, vì vậy hào 2 có thể dùng để phán đoán bệnh tật. Thế Tử Tôn là tử cung, Câu Trần là khối u. Hào 2 là tử cung, Tuyệt địa hóa Mộ khố của Tử Tôn, lại là tử cung, vì vậy có u xơ tử cung. Hào 6 Dần mộc ám động là Bệnh địa của hào Thế, hào 6 là đầu, Bệnh địa là bệnh, gặp xung là choáng váng, vì vậy có vấn đề chóng mặt. Tị hỏa động, phán đoán năm 2001 bị u xơ tử cung. Hào 2 là phu vị, Quan Quỷ cũng biểu thị chồng, hào Ứng lại là phu vị, hợp Nhật biểu thị chồng có ngoại tình, thủy hỏa gặp nhau chủ tức giận, vì vậy phán đoán là năm 2001 chồng có ngoại tình, tức giận mà bị u xơ tử cung. Trên thực tế: Đúng là năm 2001 bởi vì chồng ngoại tình, tức giận mà bị u xơ tử cung, những phán đoán bệnh tật khác cũng ứng nghiệm. Quan Quỷ là thần rảnh rỗi, vượng là bệnh

Ví dụ: Ngày Mậu Dần tháng Tý, một phụ nữ đoán thân thể, được quẻ Sơn Hỏa Bí biến Cấn Vi Sơn.

Lấy hào Thế làm Dụng thần. Hào Thế được Nguyệt sinh Nhật phù là vượng tướng, không có Không Phá, cũng không bị khắc hay tiết khí. Quan Quỷ trong quẻ lưỡng hiện, Quỷ vượng là bệnh. Trì Thế chính là có bệnh lâm thân, tại hào sơ là đi đứng, tại hào 6 là đầu. Mộc chủ đau nhức, vì vậy nhất định có chứng đau đầu và đau chân.

143

Trên thực tế: Đúng là có chứng đau đầu và đau chân. Mộ khố của Quan Quỷ là bệnh

Ví dụ: Ngày Bính Tý tháng Ngọ, một người nam đoán bệnh bản thân, được Phong Thủy Hoán biến Thủy Địa Tỷ.

Lấy hào Thế làm Dụng thần. Hào Thế Tị hỏa tại hào 5 bị Nhật khắc, hào 5 hỏa là tim, tim không tốt. Hào 2 Thìn thổ là Mộ khố của Quan Quỷ lâm Câu Trần phát động, hào 2 là chân, Câu Trần chủ sưng trướng, chân sưng phù. Trên thực tế: Đúng là như vậy. Mộ khố của Kỵ thần là bệnh

Ví dụ: Ngày Ất Hợi tháng Dần, nữ đoán niên vận, được Hỏa Thiên Đại Hữu biến Thiên Phong Cấu.

144

Trong quẻ niên vận đã bao hàm thông tin thân thể. Hào Thế Thìn thổ tại hào 3 bị Nguyệt khắc thương, hào 3 là tử cung, Thìn thổ là Mộ khố của Tử Tôn cũng chủ tử cung, Câu Trần là tắc nghẽn, vì vậy có thông tin ống dẫn trứng không thông. Hào 5 Mùi thổ là Mộ khố của Kỵ thần, hào 5 là ngực, Tài khố là thực quản, đường hô hấp, tại cung Càn lại chủ hệ hô hấp, vì vậy đường hô hấp, thực quản cũng không tốt. Trên thực tế: Có viêm thực quản, hô hấp không tốt, chức năng buồng trứng gặp trở ngại. Quẻ độc phát, hào độc phát có thể biểu thị chứng bệnh

Ví dụ: Ngày Kỷ Mão tháng Tý, một phụ nữ đoán bệnh bản thân, được Sơn Địa Bác biến Cấn Vi Sơn.

Hào 3 Mão mộc độc phát, không sinh Dụng thần, cũng không khắc Dụng thần và Nguyên thần, cũng không phải là Bệnh địa của Dụng thần,… Hào độc phát này biểu thị chứng bệnh. Mộc chủ đau ngứa, lâm Huyền Vũ chủ màu đen, hào 3 là thắt lưng, ngoại quái Cấn là lưng, chứng tỏ lưng ngứa ngáy và có vết đen. Trên thực tế: Đúng là như vậy. Quan Quỷ không hiện trên quẻ, Phi thần của nó có thể làm căn cứ phán đoán bệnh tật

Ví dụ: Ngày Mậu Tuất tháng Tý, nữ đoán niên vận, được Sơn Lôi Di biến Hỏa Lôi Phệ Hạp.

145

Trong quẻ niên vận đã bao hàm thông tin thân thể. Hào Thế phát động hóa ra Quan Quỷ, hào Thế là Mộ khố của Tử Tôn có thể hiểu là tử cung, nhưng hào vị hơi cao. Quan Quỷ không hiện trên quẻ phục dưới hào 3, Quan Quỷ là bệnh, lâm Bạch Hổ lại chủ bệnh, Phi thần là Thai khố của Tử Tôn, hào 3 là tử cung, Thai khố cũng là tử cung, vì vậy là tử cung có vấn đề. Nguyên thần bị khắc, Cừu thần Nguyệt kiến nhập quẻ, lâm Câu Trần, tổng hợp lại là u xơ tử cung. Trên thực tế: Đúng là u xơ tử cung. Quẻ cá biệt, lấy thuộc tính quái cung của quẻ chính làm bệnh

Ví dụ: Ngày Nhâm Thân tháng Sửu, nữ đoán bệnh của cha, được Càn Vi Thiên biến Trạch Thiên Quải.

Lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng thần. Phụ Mẫu Không Vong hóa Nguyệt phá, tại hào 6 lâm Bạch Hổ, dễ xem là xuất huyết não. Trên thực tế: Là ung thư phổi, chính là ứng vào quái cung.

146

PS: Đây gần như là cái gốc của cuốn Tật Bệnh, muốn xem bệnh nặng hay nhẹ lành hay dữ thì trước hết phải biết bệnh ở đâu đã! Trân trọng @@@@@@@@@@

DỰ ĐOÁN THI CỬ Th8 15

Từ khi học tiểu học đến khi ra ngoài xã hội, mỗi người đều phải trải qua rất nhiều kỳ thi, cho dù là thi cấp ba, thi đại học, hay thi tuyển dụng, thậm chí là thi thăng chức, kết quả thi cử có vẻ như có liên quan đến trình độ của người tham gia thi, nhưng trên thực tế cũng có liên quan rất lớn tới vận khí của người đó. Có người thi được hạng nhất cũng không đậu, có người điểm kém cũng thi đậu, điều này không thể không nói là do vận khí. Qua một số ví dụ tôi được nghiệm chứng, có người vẫn chưa tham gia thi, kết quả của cuộc thi đã được dự đoán ra từ trước, đôi khi ngay cả điểm thi của đối phương cũng có thể suy đoán ra được, chính xác hơn so với người đó tự mình đánh giá. Do vậy, ở phương diện này thì dự đoán lục hào rất có giá trị nghiên cứu. Đối với người tham gia thi, phương pháp này có vai trò rất hữu ích là hướng dẫn ghi danh nguyện vọng, lựa chọn phương vị trường học thu nhận v.v.

CÁCH CHỌN DỤNG THẦN TRONG DỰ ĐOÁN THI CỬ ◆ Dự đoán về thi cử, lấy Quan Quỷ và Phụ Mẫu làm Dụng thần. Quan Quỷ là thứ bậc, Phụ Mẫu là thành tích và giấy báo nhập học. Cả hai vượng tướng thì có thể thi tốt.

MỘT SỐ DỰ ĐOÁN THI CỬ CƠ BẢN ◆ Khi Nhật Nguyệt và Quan Quỷ, Phụ Mẫu có ngũ hành tương đồng, hoặc sinh hợp hào Quan Quỷ, Phụ Mẫu, thi cử nhất định sẽ có thành tích tốt. ◆ Phụ Mẫu hưu tù, Quan Quỷ vượng mà phát động cũng có hy vọng thi đậu. ◆ Phụ Mẫu trì Thế động mà hóa Quan Quỷ, kết quả thi hài lòng. Quan Quỷ phát động hóa Tiến thần, thành tích càng thi càng tốt.

147

◆ Quan Quỷ, Phụ Mẫu thành tam hợp cục, thi nhất định qua. ◆ Thanh Long lâm Quan Quỷ phát động sinh hợp hào Thế, niềm vui lên lớp đến với mình. ◆ Thanh Long, Bạch Hổ đồng thời phát động, có thể thi được hạng nhất. ◆ Tử Tôn không nên trì Thế, càng không nên phát động trong quẻ. Tử Tôn phát động, thường sẽ không được tuyển chọn. ◆ Quan Quỷ, Phụ Mẫu, hào Thế, đều không nên Nguyệt phá, Không Vong. Không Phá hưu tù, chắc chắn không đậu. ◆ Quan Quỷ không nên sinh hào Ứng, đây gọi là vô tình. Vượng tướng cũng khó thi đậu. ◆ Thê Tài phát động, lấy tiền đi học, hoặc may mắn gọi tên. ◆ Tử Tôn, Thê Tài đồng thời phát động, học hành thi cử sợ có khó khăn. ◆ Thi xin việc, thi đánh giá chức danh đều có thể chiếu theo phương pháp dự đoán về thi học.

VÍ DỤ VỀ DỰ ĐOÁN THI CỬ CƠ BẢN Ví dụ 1: Ngày Bính Dần tháng Ngọ, nữ đoán về con gái thi đại học, được quẻ Sơn Thủy Mông biến Khôn Vi Địa.

Phán đoán:

148

Lấy Quan Quỷ và Phụ Mẫu làm Dụng thần. Quan Quỷ Tý thủy không được Nhật Nguyệt sinh phù, bị Nguyệt kiến xung phá, lại có Tử Tôn Thìn thổ phát động khắc Quan, là không cát. Hào Phụ Mẫu lưỡng hiện, lấy hào phát động làm Dụng thần. Hào 6 Phụ Mẫu Dần mộc tuy được Nhật thần tỉ phù, nhưng động hóa hồi đầu khắc, rất khó thi đậu đại học. Kết quả: Sau này quả nhiên không thi đậu đại học. Ví dụ 2: Ngày Mậu Tý tháng Mùi, nữ đoán về thi đại học, được quẻ Thủy Trạch Tiết.

Phán đoán: Lấy hào Quan Quỷ và Phụ Mẫu làm Dụng thần. Trong quẻ Quan Quỷ lưỡng hiện, lấy Quan Quỷ Sửu thổ Nguyệt phá làm Dụng thần. Phụ Mẫu Thân kim được Nguyệt sinh phù hợp Thế, là cát, nhưng không nên Quan Quỷ Sửu thổ Nguyệt phá. May là Nhật thần Tý thủy hợp phá, tôi đoán dựa vào bản thân thì không thi đỗ đại học, nhưng có người giúp đỡ, cuối cùng có thể lên đại học. Dụng thần lâm Bạch Hổ, là chuyên ngành pháp luật. Kết quả: Quả nhiên không thi đậu, nhưng thông qua quan hệ của cha mẹ, cuối cùng đã được học chuyên ngành pháp luật ở một đại học. Trân trọng

149

ĐOÁN TÍNH CÁCH VÀ TƯỚNG MẠO Th8 26

Đoán tính cách và tướng mạo con người bằng quẻ dịch Lục hào là căn cứ vào Dụng thần lâm ngũ hành, lục thần và Dụng thần tại quái cung để tiến hành phán đoán. Tính cách phân ra hai phương diện âm và dương, căn cứ vào Dụng thần suy vượng và nội dung dự doán cụ thể mà chọn lựa linh hoạt. Dùng lục hào dự đoán tướng mạo có thể phán đoán từ đầu đến chân, nhưng không phải là cách thức hóa, phải căn cứ biến hóa trong quẻ và dùng tượng phân tích mới chuẩn xác. Phán đoán chủ yếu là dùng quái cung, ngũ hành, lục thần, lục thân, hào vị, sinh khắc xung hợp giữa các hào, Nguyệt phá, Không Vong,… để phân tích tổng hợp.

PHƯƠNG PHÁP PHÁN ĐOÁN TÍNH CÁCH Phán đoán tính cách theo quái cung Dụng thần tại cung Càn: •

Phán đoán tích cực, là có khí chất, có uy nghiêm, được người tôn kính, lòng ôm chí lớn, có phong độ.



Phán đoán tiêu cực, là tự cao tự đại, ngạo mạn, cao ngạo, không hòa đồng.

Dụng thần tại cung Khôn: •

Phán đoán tích cực, là thận trọng, thành thật, giữ chữ tín, lòng dạ rộng rãi, bao dung tất cả.



Phán đoán tiêu cực, không thích nói chuyện, mềm yếu, bị người ngược đãi, không có chí khí, không có chủ kiến,…

Dụng thần tại cung Khảm: •

Phán đoán tích cực, là thông minh, lanh lợi, có trí tuệ.



Phán đoán tiêu cực, xảo quyệt, nhiều ý đồ xấu, không thành thật, nói năng không đáng tin,…

Dụng thần tại cung Ly: •

Phán đoán tích cực, là hoạt bát, có sức sống, tính cách rộng rãi.



Phán đoán tiêu cực, là nóng nảy, dễ nổi giận, đầu voi đuôi chuột,… 1

Dụng thần tại cung Chấn: •

Phán đoán tích cực, lòng dạ lương thiện, có lòng từ bi.



Phán đoán tiêu cực, là dễ tức giận, nóng nảy, tính cách nôn nóng, làm việc thiếu cân nhắc,…

Dụng thần tại cung Tốn: •

Phán đoán tích cực, lòng dạ lương thiện, có lòng từ bi.



Phán đoán tiêu cực, tính cách do dự thiếu quyết đoán, lập trường không kiên định,…

Dụng thần tại cung Cấn: •

Phán đoán tích cực, là bảo thủ, thận trọng, rất điềm tĩnh.



Phán đoán tiêu cực, lười biếng, nhát gan.

Dụng thần tại cung Đoài: •

Phán đoán tích cực, là lạc quan, dễ bàn, giỏi nói, thích uống rượu.



Phán đoán tiêu cực, lải nhải, lảm nhảm, nói nhiều,…

Phán đoán tính cách theo ngũ hành Hào Dụng là kim: •

Phán đoán tích cực, là có khí phách đàn ông, coi trọng nghĩa khí, coi trọng chữ tín, chuộng chính nghĩa.



Phán đoán tiêu cực, là thích tranh giành, háo sắc, nóng nảy, nôn nóng, hung ác,…

Hào Dụng là mộc: •

Phán đoán tích cực, lòng dạ lương thiện, chính trực, từ bi, khoan dung.



Phán đoán tiêu cực, nhu nhược, mềm yếu,…

Hào Dụng là thủy: •

Phán đoán tích cực, là thông minh, cơ trí, thanh cao, trí lực cao.



Phán đoán tiêu cực, là xảo quyệt, dâm loạn, tùy tiện, không giữ lời hứa,…

2

Hào Dụng là hỏa: •

Phán đoán tích cực, tràn trề sức sống, hoạt bát, tính cách hướng ngoại.



Phán đoán tiêu cực, dễ tức giận, nóng nảy, nôn nóng,…

Hào Dụng là thổ: •

Phán đoán tích cực, thận trọng, thành thật, coi trọng chữ tín.



Phán đoán tiêu cực, cứng nhắc, không hoạt bát, đần độn, chậm chạp.

Phán đoán tính cách theo lục thần Thanh Long: lòng dạ lương thiện, có lễ phép, nho nhã lễ độ, khoan dung rộng lượng, từ thiện, háo sắc, thích chưng diện, thích sạch sẽ, hay làm dáng, tao nhã,… Chu Tước: dễ bàn, lải nhải, thiện ngôn, nói nhiều, cười híp mắt, khéo nói, chửi rủa,… Câu Trần: chính trực, thành thật, trì độn, lười biếng, không linh hoạt, ưa tĩnh, tính chậm chạp, thận trọng, cứng nhắc,… Đằng Xà: hẹp hòi, keo kiệt, tham tài, không giữ lời, bí hiểm, quái gở, không hòa đồng, cổ quái, mới mẻ, đặc biệt, nhát gan. Bạch Hổ: tức giận, dễ tức giận, thích tranh đấu tàn nhẫn, có uy nghiêm, hung tàn, cứng rắn, nghịch ngợm, thẳng thắn lưu loát, thẳng tính, ngay thẳng, tính tình nôn nóng,… Huyền Vũ: xảo quyệt, háo sắc, dâm loạn, nham hiểm, có mưu trí, tính cách hướng nội, không rộng rãi, ưu uất, ít nói,…

Ví dụ về phán đoán tính cách Ngày Đinh Mão tháng Dần, nữ đoán đoán tình trạng người đàn ông mình thích, được quẻ Sơn Thủy Mông biến Hỏa Thủy Vị Tế.

3

Lấy Quan Quỷ Tý thủy làm Dụng thần. Dụng thần tại cung Ly, đối phương tương đối hoạt bát, tại hào 5, hào 5 là tôn vị, độc lập mạnh mẽ, có sự nghiệp riêng mình. Phản hồi: Rất hoạt bát, vài năm trước độc lập bắt đầu sự nghiệp của mình. Dụng thần là thủy lâm Huyền Vũ, thông minh, đầu óc tốt. Phản hồi: Sử dụng đầu óc rất tốt. Dụng thần lâm thủy thêm Huyền Vũ, đối phương rất hấp dẫn, khiến cô thích. Phản hồi: Đúng thế. Mặc dù đã hơn bốn mươi tuổi, nhưng thể hình vẫn rất đẹp, mông nhỏ, chân dài, đó là loại tôi thích, sau lần đầu gặp mặt đã bị hấp dẫn. Tử Tôn trì Thế, chính cô đã có con. Phản hồi: Đúng, con của tôi đã 18 tháng tuổi, là con trai. Tử Tôn Tuất thổ Không Vong lâm Bạch Hổ, Không Vong chủ mất đi, Bạch Hổ chủ xuất huyết, lưu sản, bản thân cô đã từng lưu sản. Phản hồi: Vậy mà có thể thấy được việc này? Đúng! Đúng! Tôi đã từng lưu sản ở năm 21 tuổi. Quan Quỷ Tý thủy không được Nhật Nguyệt trợ giúp, Tử Tôn trì Thế phát động, hai người khó có duyên phận.

4

Phản hồi: Tôi chỉ tương tư đơn phương.

PHƯƠNG PHÁP PHÁN ĐOÁN TƯỚNG MẠO Phán đoán theo hào vị •

Hào 6: đầu tóc, vật trang sức, tay, vai, mũ nón,…



Hào 5: tai, mắt, mũi, miệng, gương mặt, mặt, râu, cổ họng, mắt kính,…



Hào 4: ngực, vú, lưng,…



Hào 3: bụng, mông, eo, lưng,…



Hào 2: đùi, đầu gối, chân,…



Hào sơ: chân, bước chân,…

Phán đoán thể hình Căn cứ Dụng thần lâm ngũ hành để phán đoán: •

Dụng thần là kim: vượng tướng là thể trạng cường tráng, khôi ngô, rắn chắc, trắng nõn, giọng nói vang dội, giọng to; hưu tù là gầy yếu, da bọc xương,…



Dụng thần là mộc: vượng tướng là thon thả, yểu điệu, cao to, vóc dáng cao, lưng thẳng; hưu tù là gầy yếu, mỏng manh,…



Dụng thần là thủy: vượng tướng là xinh đẹp, dáng điệu mềm mại, dịu dàng, mạnh mẽ, cường tráng, linh hoạt, hoạt bát,…



Dụng thần là hỏa: người to đầu nhỏ, đi lại không ngừng đung đưa, mặt đỏ, đầu ngọn,…



Dụng thần là thổ: vượng tướng là người cao mà to mập; hưu tù là lùn thấp béo phì,…

Phán đoán đầu tóc Căn cứ theo lục thân để phán đoán, vượng tướng là dày đậm, hưu tù là thưa thớt. •

Lâm Thanh Long là đầu tóc chỉnh tề, duyên dáng, xinh xắn, trang sức mới mẻ độc đáo.



Lâm Chu Tước là tóc đỏ, tóc xõa.



Lâm Huyền Vũ là tóc đen nhánh.



Lâm Bạch Hổ là tóc cứng, hoặc có tóc trắng. 5



Lâm Câu Trần là tóc hơi vàng, lôi thôi lếch thếch.



Lâm Đằng Xà là tóc quăn, uốn tóc,…

Phán đoán khuôn mặt Tý Ngọ Mão Dậu là mặt tròn, Dần Thân Tị Hợi là mặt dài, mặt trái xoan, Thìn Tuất Sửu Mùi là mặt chữ quốc (国), mặt vuông. Ngũ Hành Nguyệt phá, tướng mạo xấu xí hoặc mặt có vết, thương tích. Lâm Thanh Long, diện mạo đẹp. Lâm Chu Tước, mặt đỏ hoặc thường có dáng cười. Lâm Câu Trần, vẻ mặt khô khan, không có biểu cảm, đần độn. Lâm Đằng Xà, hoặc có sẹo vết thương, hoặc nhiều nếp nhăn, hoặc mặt mày cau có. Lâm Bạch Hổ, vẻ mặt nghiêm túc, khiến người ta sợ hãi. Lâm Huyền Vũ: hoặc có nốt ruồi đen, hoặc mặt đen, hoặc gợi cảm. Khi dự đoán cũng có thể kết hợp quái cung để phân tích: Càn tròn, Khôn vuông,Tốn dài, Đoài là răng miệng, Cấn là mũi, Ly là mắt, Khảm là tai. Khuôn mặt phân chia tỉ mỉ: hỏa là mắt; thủy là cổ họng, miệng; thổ là mũi; kim là tai, răng; mộc là tóc, lông mày, râu. Hỏa bị khắc, mắt cận thị; hỏa bị hợp, nhập Mộ, đeo kính; gặp xung, nháy mắt nhiều; Không Vong, hốc mắt lõm sâu; lâm Thanh Long, mắt đẹp; lâm Đằng Xà, mắt hí hoặc mắt lệch; lâm Huyền Vũ, mắt bị mờ; lâm Câu Trần, mắt lồi; lâm Chu Tước, mắt cười; lâm Bạch Hổ, mắt có thần. Thủy bị hợp, môi khép kín; gặp xung, miệng lệch; nhập Mộ lâm Chu Tước, thích che miệng mà cười; Mộ tại Nhật Nguyệt, hô hàm trên; Mộ tại bên dưới, hô hàm dưới; lâm Thanh Long, môi đẹp; lâm Câu Trần, miệng nhô ra, hoặc môi dày,… Thổ bị hợp, lỗ mũi nhỏ; gặp xung, mũi vẹo; gặp Không, mũi lõm; lâm Thanh Long, mũi thẳng; lâm Chu Tước, đỏ lên; lâm Câu Trần, mũi to; lâm Đằng Xà, mũi thon thả,… Kim Nguyệt phá, kẽ răng thưa; gặp Không, ù tai, tai điếc; lâm Đằng Xà, răng xấu xí; Không thêm Đằng Xà, răng sâu; lâm Thanh Long, răng đều,… Mộc Không, ít tóc; gặp xung, tóc tung bay; nhập Mộ, có đội mũ,…

6

Phán đoán chiều cao Phán đoán chiều cao đối phương, căn cứ vào sự vượng suy của Dụng thần. Dụng thần là mộc, kim, thủy thì tương đối cao; là hỏa, thổ thì tương đối thấp. Đây là từ tính chất ngũ hành để phán đoán. Đồng thời kết hợp Dụng thần vượng suy để phân tích tổng hợp. Dụng thần vượng tướng là vóc người cao to, hưu tù là vóc người thấp bé. Ngoài ra cũng có thể vận dụng 12 cung trường sinh, gặp đất Thai, Dưỡng, Suy, Bệnh, Tử, Tuyệt là thấp, gặp đất Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng là cao. Con số cụ thể có thể căn cứ vào quái số kết hợp hào động, hào vị Dụng thần,… Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Thông thường, lấy các số theo sau 1 mét. Cũng có thể kết hợp phạm vi số tiên thiên để phán đoán. Giáp Kỷ Tý Ngọ 9, Ất Canh Sửu Mùi 8, Bính Tân Dần Thân 7, Đinh Nhâm Mão Dậu 6, Mậu Quý Thìn Tuất 5, Tị Hợi 4. Lấy số phán đoán chiều cao không có quy định chặt chẽ, căn cứ vào suy vượng lấy châm chước là được rồi.

Ví dụ về phán đoán tướng mạo Ngày Mậu Tuất tháng Dậu, nữ đoán hôn nhân, được quẻ Lôi Thủy Giải.

Lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Phụ Mẫu Tý thủy không hiện trên quẻ, giấy chứng nhận kết hôn không hiện. Thế tại hào 2 Không Vong, hào 2 là nhà, Không chủ cô độc, tượng một mình trông coi nhà, là không có kết hôn. Hương Khuê Tý thủy không hiện trên quẻ cũng biểu thị không có kết hôn.

7

Quan Quỷ là kim, Nguyệt kiến lâm Quan Quỷ, đối phương là quân nhân. Lâm Thanh Long, nhìn rất đẹp trai, Nguyệt phù Nhật sinh là vượng tướng, vóc người cao. Hào Thế ám động sinh Dụng thần, từ trong nội tâm thích đối phương. Hào 6 Nguyên thần Tuất thổ sinh Quan Quỷ, hào 6 là đầu, thổ chủ màu vàng, Chu Tước chủ màu đỏ, đối phương tóc đỏ. Hào Thế Không Vong lâm Đằng Xà, Không Vong chủ bất an, Đằng Xà cũng chủ bất an, bản thân rất lo lắng. Dụng thần vượng tướng, có thể thành. Phản hồi: Bạn trai vốn là người Mỹ, công tác tại đội cảnh vệ. @@@@@@@@@

VƯƠNG HỔ ỨNG ĐÁP NGHĨA – PHẦN 4 Th8 28

Với bộ sách của Vương Hổ Ứng đã được xuất bản, trong đó là trình bày rất rõ những kiến thức luận đoán hết sức cơ bản và thường quy. Tuy nhiên như Vương Hổ Ứng đại sư đã nói, phải vận dụng linh hoạt trong quá trình luận đoán mà không được máy móc. Tuy đã có cuốn Tăng San Bốc Dịch Bình Thích bình chú lại những luận đoán sai lầm của các bậc tiền nhân nhưng vẫn có sự mâu thuẫn không hề nhẹ làm cho người học Dịch vẫn cảm thấy khá mông lung và lạc vào mê hồn trận. Nay mình sẽ viết 1 loạt bài về các thắc mắc về những vấn đề thường xuất hiện khi luận đoán, gây thắc mắc cho người học để mọi người có thể từ đó có thể tìm được những lý giải cho mình. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TAM HỢP CỤC CỦA VƯƠNG HỔ ỨNG

Ngày Giáp Thìn tháng Thân, xem bệnh anh trai, được Truân biến Chấn

Hào Huynh Đệ Tý thủy là Dụng thần, các hào Kỵ thần, Nguyên thần trong quẻ này đều động, Tuất thổ động sinh Thân; Thân kim động sinh Tý thủy; Nguyệt kiến (Thân) lại sinh Tý thủy, đến ngày Mậu Thân, bệnh

8

nặng sẽ thuyên giảm, như vậy sao có thể nói rằng “Đằng Xà động sẽ chết, Bạch Hổ động có tang”! Tân bình thích: Bạch Hổ có ý nghĩa bệnh tật, lâm Ứng lâm Quan Quỷ động mà khắc Dụng, Ứng là nơi khác, chính là bệnh nhiễm từ nơi khác, Dụng thần nhập Mộ ở Nhật, là tượng nằm bệnh trên giường, Phụ Mẫu lâm Đằng Xà động đến sinh Dụng, Đằng Xà chủ triền miên, là đã bị bệnh trong thời gian rất dài mới được hồi phục. Tại sao chẳng lý giải là sẽ chết? Hỏi: Dụng thần Tý thủy là hào tĩnh, nếu Tý thủy là hào động thì có thể kết hợp với Nhật Nguyệt tạo thành tam hợp Thân Tý Thìn hay không? Đáp: Quẻ này tam hợp không thành, tam hợp cục ít nhất là trong quẻ có hai hào động, mà hai hào động này lại nhất định phải là địa chi trong tam hợp cục. Địa chi ở giữa cũng cần phải phát động. Quẻ này Tý thủy bất động, vì vậy không phải là tam hợp cục. GIẢI THÍCH VỀ KHÔNG VONG 1 CỦA VƯƠNG HỔ ỨNG

Cùng ví dụ như trên: Ngày Giáp Thìn tháng Thân, xem bệnh anh trai, được Truân biến Chấn

Hỏi: Quan Quỷ Tuất thổ lâm Bạch Hổ khắc Dụng, do đó bị bệnh rất nặng. Nếu Dụng thần lâm Đằng Xà, mà giải thích là bị bệnh trong thời gian rất dài, thì nghe cũng thuận. Nhưng quẻ này Phụ Mẫu lâm Đằng Xà mà giải thích là bệnh lâu, nghe có vẻ không thuận cho lắm? Đáp: Khi xem bệnh, không nhất định là phải xem Quan Quỷ, có nhiều trường hợp phải xem Dụng thần, Nguyên thần, hoặc Kỵ thần. Quẻ này Nguyên thần Phụ Mẫu hóa hồi đầu khắc, vì vậy có thể xem đây là bệnh, mà Quan Quỷ là Kỵ thần cho nên cũng có thể xem Quan Quỷ là bệnh. Hỏi: Phụ Mẫu hóa hồi đầu khắc thì có thể sinh Dụng thần hay không? 9

Hào cách sơn hóa hào, có thể hiểu là Quan hóa hồi đầu sinh hay không? Quan động Nhật xung là Nhật phá hay là xung tán? Đáp: Khi Ngọ hỏa nhược bị xung mất thì Phụ Mẫu có thể sinh Huynh Đệ. Nhật xung Quan có thể là xung động mạnh hơn, ở đây có Phụ Mẫu động cho nên có thể tạo thế liên tục tương sinh. GIẢI THÍCH VỀ KHÔNG VONG 2 CỦA VƯƠNG HỔ ỨNG

Ngày Tân Dậu tháng Dần, xem về việc mở cửa hàng, được quẻ Cấn biến Minh Di

Hào Thế tại Dần mộc, đắc lệnh đương quyền, nếu mở cửa hàng trong lúc này, việc buôn bán sẽ cực kỳ phát đạt. Nhưng hiềm nỗi Nhật thần Thìn khắc hào Thế, Dần mộc động hóa Dậu kim, hồi đầu khắc Thế, khiến đại tượng sinh ít khắc nhiều. Lại là quẻ lục xung, lục xung thì không được lâu. Người xem liền hỏi rằng: “Là người làm không đồng lòng, hay là bởi nguyên do khác?” Ta bèn đáp rằng: “Quỷ ở bên mình (tức Quỷ trì Thế), nên phòng bệnh tật, người làm cũng bởi đó mà thay lòng, ắt phải chịu liên lụy.” Về sau, người này quả nhiên tháng sáu mắc bệnh lỵ, đến tháng tám vẫn chưa khỏi. Người làm bèn lấy trộm sạch, người này kêu lên quan, nhưng cũng không lấy được đồng nào. Như vậy chính là được thời vượng tướng thì vô sự, hết thời sẽ chịu tổn hại. Sở dĩ ứng nghiệm vào tháng sáu, là vì mộc gặp Mộ ở Mùi; người làm thay lòng đổi dạ, vì hào Ứng tại Thân kim, đến mùa thu được thời mà xung hào Thế; của cải bị lấy trộm, vì hào Tài Tý thủy gặp Không Vong.

10

Tân bình thích: Quẻ này giải thích dễ dẫn tới hiểu lầm, khi mở cửa hàng lấy Tài làm Dụng thần, nếu lại hỏi thêm cát hung của bản thân, thì mới xem hào Thế. Hiện nay phát đạt, là vì Nhật thần sinh hào Tài. Nhưng hào Tài gặp Không, bị Huynh Đệ Thìn thổ phát động khắc chế, Nguyên thần Nguyệt phá, lại là quẻ lục xung, do đó kinh doanh không được lâu dài. Tài lâm Huyền Vũ mà Không, Huyền Vũ là trộm cắp, cho nên bị ăn trộm. Hào sơ là người làm thuê, Huynh Đệ là nhóm, lâm Chu Tước động khắc hào Tài, hóa ra Quan Quỷ, Chu Tước là quan ti (kiện tụng), khẩu thiệt, Quan Quỷ là quan ti, cho nên là do nhóm người làm thuê trộm cắp tài sản trong cửa hàng mà phát sinh quan ti khẩu thiệt. Bị kiết lỵ, là vì Kỵ thần tại hào 3 động mà khắc Thế. Hào 3 là hào vị bụng, Tài là phân và nước tiểu, Tử Tôn là Nguyên thần của hào Tài, vì vậy là ruột, có kiết lỵ. Hỏi: Vương lão sư đoán hiện nay kinh doanh phát đạt là bởi vì hào Tài được Nhật sinh. Hào Tài Không Vong thì còn có thể được sinh hay không? Bởi vì bên dưới có thuyết minh, Tài Không bị khắc nhập Mộ, bởi vậy mà bị trộm. Đáp: Tài Không Vong có thể được sinh hay không là một khái niệm cơ bản nhập môn. Nhật sinh Tài, Nhật là hiện nay, là hiện nay kinh doanh phát đạt. Nhưng Tài Không nhập Mộ, Mộ biểu thị kết thúc, Không biểu thị không được tài, vì vậy không thể lâu dài. GIẢI THÍCH VỀ KHÔNG VONG 3 CỦA VƯƠNG HỔ ỨNG

Ví dụ của Vương lão sư: Ngày Đinh Sửu tháng Dậu, nữ xem bệnh đồng nghiệp, được quẻ Địa Thiên Thái biến Lôi Trạch Quy Muội

Đoán bệnh đồng nghiệp thì lấy hào Ứng làm Dụng thần, hào Ứng nhập Mộ, tượng nhập viện, Dụng thần vượng tướng Tuần Không, bệnh gần không sao. Hào 4 Huynh Đệ Sửu thổ là Mộ khố của Dụng thần, lâm

11

Bạch Hổ động mà hóa ra Phụ Mẫu Ngọ hỏa, quẻ tại cung Khôn, Khôn chủ dạ dày, hào 4 cũng chủ dạ dày, Bạch Hổ chủ máu, Phụ Mẫu chủ bệnh viện, là bởi vì xuất huyết dạ dày nhập viện, quẻ chính lục hợp bệnh gần không nên. Càng không nên Nguyên thần Huynh Đệ Thìn thổ động mà hóa thoái. Sau này tất thành bệnh mãn tính, cơ thể dần dần suy yếu. Cừu thần Quan Quỷ Dần mộc lâm Câu Trần ở hào 2, Dần mộc chủ gan mật, Câu Trần chủ sưng trướng, người đó có bệnh như gan to, xơ gan hoặc sỏi mật. Tình hình ứng nghiệm: Đồng nghiệp của cô ấy phải nhập viện vì xuất huyết dạ dày, sau khi điều trị có chuyển biến tốt đã xuất viện, vào tháng Mão năm Đinh Sửu, bởi vì gan to mà chết. Ứng năm Sửu, là năm Dụng thần nhập Mộ và Nguyên thần hóa thoái. Ứng tháng Mão, là vì Dụng thần gặp tháng xung. Đây cũng là Dụng thần vượng mà liền khỏi bệnh, bệnh gần gặp hợp, gặp tháng xung mà chết. Hỏi: Quẻ này cũng là bệnh gần gặp Không, thì khỏi bệnh. Nhưng bởi vì Nguyên thần hóa thoái, lại quẻ chính lục hợp, sau này tất thành bệnh mãn tính, cơ thể từ từ suy nhược. Kết quả là ở tháng Mão năm Sửu qua đời vì chứng gan to. Ví dụ của Dã Hạc tuy không phải là Nguyên thần hóa thoái, lại có Kỵ thần ám động đến khắc, chẳng lẽ không nghiêm trọng bằng quẻ này ư? Đáp: Quẻ đó của Dã Hạc cũng hóa lục hợp, kết quả sau đó ra sao thì chúng ta không được biết, nhưng hóa lục hợp thông thường sẽ xuất hiện vấn đề. Bệnh gần gặp Không, xung và hợp là vấn đề mâu thuẫn. CÁCH SƠN HOÁ HÀO CỦA VƯƠNG HỔ ỨNG

Ngày Canh Thân tháng Dần, xem về con trai bị bệnh đậu mùa, được quẻ Phong Hỏa Gia Nhân biến Ly

12

Dã Hạc lão nhân phán đoán: Hào Tử Tôn Tị hỏa, tại mùa xuân là đương lệnh, Tử Tôn là vượng tướng, nên bệnh có thể chữa được. Nhưng sau lại chết vào giờ Dần ngày Dần, lúc này mới ngộ ra rằng, do Nguyệt kiến tại Dần, Nhật kiến tại Thân, cùng với hào Tị tạo thành tam hình. Chỉ có quẻ này ứng nghiệm, vì không bị các hào khác tổn thương. Còn Tý Mão Thìn Tuất Sửu Mùi, cũng có ứng nghiệm, đều có tác dụng phụ trợ cho điều hung. Hỏi: Quẻ này có phải là tượng “Tử Tôn hóa Thê Tài + Thê Tài hóa Quan Quỷ = Tử Tôn cách Thê Tài biến Quỷ”? Có phải là người xưa không biết cách chữa trị đậu mùa mà dùng sai phương pháp, khiến cho đứa con tử vong? Quẻ này có liên quan đến việc dùng tam hình để luận cát hung hay không? Đáp: Tam hình chỉ xem một phần thôi, ở quẻ này thì tác dụng của cách sơn hóa hào là rất lớn. Cái này giống như A = B, B = C, vì thế A có thể trực tiếp bằng C. Tử Tôn cách Tài hóa Quỷ, Tài lâm Chu Tước, có thể biểu thị bởi vì sốt mà chết, hoặc bởi vì không thể ăn uống mà chết,… ================

LỤC HÀO QUÁI LỆ THUYẾT CHÂN vuonghoung.com

Sau khi hoàn thành “Lục Hào Dự Trắc Tật Bệnh Tân Thám”, tôi dự định sẽ tạm dừng bút để tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu lục hào. Tuy nhiên, các vị Dịch hữu gửi thư về tới tấp, họ nói rằng cuốn sách đó đã giúp cho họ nâng cao trình độ dự đoán rất nhiều, hy vọng tôi có thể viết thêm một tác phẩm lục hào có tính toàn diện và hệ thống hơn, thế là tôi đã nảy ra ý định viết cuốn sách này. Các ví dụ được trích dẫn trong sách đều là những nghiệm chứng thu được từ trong thực tiễn. Thông qua những ví dụ này, tôi muốn tiết lộ lý luận và kỹ thuật dự

13

đoán của lục hào, từ đó có thể mang lại nhiều gợi ý hữu ích cho mọi người. Vì vậy, khi lựa chọn quẻ làm ví dụ, tôi cố gắng không sử dụng trùng lặp, nội dung dự đoán cũng cố gắng liên quan đến mỗi phương diện, chẳng hạn như đoán thời tiết, hôn nhân, tài vận, đoán vật bên trong, bệnh tật, thi cử, phong thủy, khám phá vũ trụ, tính cách, nghề nghiệp, xuất hành, thi đấu, tìm người, tìm vật, kiện tụng vân vân. Tôi viết cuốn sách này chỉ là muốn cung cấp cho mọi người một vài tư duy đoán quẻ. Đối với mỗi chuyên mục dự đoán, chẳng phải vài ba câu là có thể nói rõ, nếu muốn giảng giải chi tiết thì sợ rằng nội dung của mỗi mục đều có thể viết thành một cuốn sách, do vậy mà không thể chu toàn. Tôi cho rằng, mấu chốt để nắm vững phương pháp đoán quẻ là mở rộng cách tư duy. Khi tư duy được mở rộng, tình huống chưa từng gặp phải cũng có thể phân tích được. Nếu học vẹt các khẩu quyết thì trong thời gian ngắn không thể nâng cao kỹ thuật đoán quẻ, có một số khẩu quyết sợ là trong nhiều năm cũng không gặp được quẻ tương ứng, thế thì đi nghiệm chứng tính thật giả và tỷ lệ chính xác của nó để làm gì? Hơn nữa, thậm chí có một số khẩu quyết là sản phẩm bịa đặt, hoàn toàn không phù hợp với quái lý, sợ là người dự đoán cả đời cũng không gặp phải tình huống đó. Vì vậy, khi đọc sách, bất kể là sách do tôi viết hay là các sách dự đoán khác, mọi người cố gắng đặt trọng tâm ở tư duy giải quẻ, như vậy mới có thể giúp nâng cao trình độ dự đoán của bản thân. Có rất nhiều tác phẩm cổ điển viết về lục hào, trong đó giải thích nhiều thứ chưa hẳn đều là chính xác, nếu rập khuôn theo những nội dung trong đó thì trình độ của chúng ta rất khó được nâng cao. Ví dụ như “Bốc Phệ Toàn Thư”. Trong chương Bệnh tật của sách này viết rằng: “Hỏa Quỷ xung Tài, thượng lâm 14

tắc ẩu nghịch đa thổ”, hơn nữa còn giải thích một cách hùng hồn rằng: “Hỏa tính viêm thượng; Tài chủ ẩm thực. Vì vậy, khi xem bệnh mà gặp hỏa Quỷ động: Trong khắc Tài ngoài. Tất là nôn mửa; nặng thì ăn vào lại lộn trở ra…”. Tác giả viết sách này lại không nghĩ đến đạo lý là chỉ có hào Tài sinh Quan Quỷ, Quan Quỷ không thể xung khắc hào Tài, huống hồ hỏa Quỷ(1)? Lại ví dụ như “Bốc Phệ Chính Tông”, trong chương Hà tri có viết: “Sao biết nhà người bị mất trâu ? Sửu Quỷ lâm Không tại ngũ hào”, ý là chỉ cần trong quẻ hào 5 Quan Quỷ Sửu thổ bị Không Vong thì có thể đoán nhà người này bị mất trâu. Tại sao vậy? Lý do là theo phân hào đoán pháp thì hào 5 là trâu, Sửu lại biểu thị trâu, Quan Quỷ chủ đạo tặc, bị Không biểu thị mất. Tác giả lại không chịu nghĩ rằng Sửu thổ hoàn toàn không được xếp đặt ở hào 5! Lại ví dụ như “Dịch Ẩn”, trong chương nói về quan hệ vua tôi, lấy hào 5 là thiên tử, hào 4 là công khanh đại thần, đem khái niệm này chụp vào trong quẻ, nói rằng “Hào 4 sinh hợp hào 5, thành thật báo chủ. Hào 5 trì Phụ động khắc hào 4, không thuận tai vua”. Tác giả lại không biết rằng trong 64 quẻ chỉ có hai tình huống là hào 4 khắc hào 5 hoặc hào 5 sinh hào 4, quy luật nói trong sách hoàn toàn không thể đứng vững được. Loại khẩu quyết đoán quẻ như thế này trong sách còn rất nhiều, nếu một người học Dịch khi đọc sách không thể phân biệt được đúng sai của những khẩu quyết này, một mực học thuộc lòng, cho dù có thuộc làu tất cả các sách lục hào cổ điển, trình độ đoán quẻ có thể nâng cao được bao nhiêu? Đương nhiên, những gì tôi nói chưa hẳn đã là chân lý tuyệt đối, trong thực tiễn cũng có khi đoán sai quẻ, nhưng ít nhất những nội dung mà tôi nói đến đều là sự thật, đều là những thứ tôi được nghiệm chứng nhiều lần 15

trong thực tiễn. Tôi cho rằng, Kinh Dịch là một môn học kinh nghiệm, đồng thời cũng là một môn huyền học. Chỉ có thông qua linh cảm của bản thân, không ngừng suy nghĩ và giác ngộ, chúng ta mới thể phát hiện thêm quy luật, mới có thể đoán quẻ ngày càng chính xác hơn. Mục đích căn bản nhất của cuốn sách này chính là giúp cho trình độ dự đoán của mọi người có được một bước nhảy về chất lượng. Khi xem sách này, nếu mọi người gặp phải một số nhận định cảm thấy khó hiểu, xin tự mình suy đoán và giác ngộ, bởi vì một số quẻ liên quan đến “lục hào di thần biện hào pháp” có trình độ sâu hơn, mà phương pháp này lại là một hệ thống rất lớn, chỉ vài ba câu thì không thể nói rõ, khi nào có cơ duyên tôi sẽ trình bày. Vương Hổ Ứng [1] Quan Quỷ là hỏa thì Thê Tài là mộc. Dần Mão mộc không có quan hệ xung khắc với Tị Ngọ hỏa. Cuốn sách “Lục Hào Quái Lệ Thuyết Chân” đã xuất bản trong thời gian trong tháng 11/2019. Nếu có nhu cầu tìm đọc và mua sách, xin mời quý dịch hữu xem tại đây. Trân trọng Trần Phương – Vũ Phác

QUẺ DO AI ĐẾN GIEO ? – Sách Kinh Dịch Lục Hào Vương Hổ Ứng vuonghoung.com

Bài viết “Quẻ do ai đến gieo?” được trích từ cuốn sách Lục Hào Quái Lệ Thuyết Chân nói về vấn đề người hỏi quẻ không cần gặp trực tiếp dự trắc sư để 16

gieo quẻ, mà chính dự trắc sư là người có thể gieo quẻ hộ người hỏi, quẻ gieo được vẫn có độ chính xác tương tự người hỏi quẻ trực tiếp đến gieo.

Quẻ do ai đến gieo? Học tập dự đoán tối kỵ sáng Tần chiều Sở, hữu thủy vô chung. Có người học dự đoán lục hào, sau khi học được một thời gian thì họ cảm thấy phương pháp lấy quẻ của lục hào không đa dạng và linh hoạt như Kỳ Môn, Lục Nhâm,… Họ thấy Kỳ Môn, Lục Nhâm chỉ dựa vào thời gian người đến, phương vị, báo số,… thì đã có thể triển khai quẻ và suy đoán từ đầu đến cuối sự tình. Nhất là khi người xin đoán không thể có mặt, phương pháp người đến gieo quẻ của lục hào tỏ ra bất lực, không thể dự đoán, thế là lại đi học Kỳ Môn, Lục Nhâm,… Có người lại đem phương thức lấy quẻ của Mai Hoa Dịch Số áp dụng cho lục hào. Xét về góc độ lấy quẻ thì cách lấy này dường như có tính đa dạng, tuy nhiên lượng thông tin của nó đã giảm đi rất nhiều. Đầu tiên, quẻ Mai Hoa Dịch Số chỉ có một hào động, mỗi quẻ trong 64 quẻ chỉ có tối đa 6 loại biến hóa, cộng lại là 384 loại biến hóa. Do đó, Mai Hoa Dịch Số bắt buộc phải tìm kiếm biến hóa từ hỗ quái, tổng quái, thác quái, đảo quái,… để trích xuất thông tin. Trong khi đó, quẻ lục hào gieo đồng xu thì lại có 4096 loại biến hóa. Nếu kết hợp với sự khác nhau về sự việc được hỏi, giới tính và tuổi tác, năm tháng ngày giờ hỏi quẻ, thì sự biến hóa của lục hào càng nhiều hơn, ít nhất là có vài trăm vạn loại, thậm chí là ngàn vạn loại biến hóa. Do đó, tôi không chủ trương áp dụng phương thức lấy quẻ của Mai Hoa Dịch Số cho dự đoán lục hào, huống hồ cả hai hình thức trang quẻ có sự khác nhau về bản chất. Mai Hoa Dịch Số thì trước định ngoại quái sau định nội quái, còn lục hào thì trang quẻ bắt đầu từ hào 17

sơ lên phía trên, cả hai có sự khác biệt rất lớn. Mặc dù cũng có một số quẻ lấy theo phương pháp Mai Hoa Dịch Số, rồi dùng phương pháp lục hào để đoán đôi khi cũng có ứng nghiệm, nhưng suy cho cùng thì sự biến hóa nhận được từ hào động là rất hạn chế, khiến cho lượng thông tin của nó cũng giảm đi rất nhiều, rất khó xuất hiện những dạng như là phục ngâm, phản ngâm, tam hợp…, khiến cho tính chính xác của cát hung và ứng kỳ cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, cách tốt nhất vẫn là sử dụng hình thức gieo đồng xu để lấy quẻ. Thế thì, khi người xin đoán bởi vì thời gian cấp bách, hoặc bởi vì khoảng cách quá xa cho nên không thể đến, lúc này phải giải quyết vấn đề lấy quẻ như thế nào? Đây chính là nội dung mà tôi muốn nói trong chương này. Trước đây, dự đoán lục hào luôn áp dụng hình thức người đến gieo quẻ, các sách thường nhấn mạnh “tâm thành tắc linh”, bảo người xin đoán khi gieo quẻ phải chuyên tâm vào sự việc mình muốn hỏi, mặc dù vậy nhưng đôi khi vẫn có quẻ không ứng nghiệm, thế là liền đổ lỗi cho người xin đoán không thành tâm… Trên thực tế, có nhiều nguyên nhân khiến cho quẻ không ứng nghiệm, có khi vì dự trắc sư phán đoán không chính xác, cũng có khi vì người dự đoán động niệm quá nhiều khiến cho quẻ không thể phản ánh tập trung vấn đề muốn hỏi, đương nhiên cũng không loại trừ nguyên nhân là bản thân một số lý luận trong dự đoán lục hào vẫn chưa được hoàn thiện, một số quy luật còn phải chờ phát hiện thêm. Qua nhiều năm nghiên cứu, tôi nhận thấy mấu chốt của dự đoán lục hào là ở chỗ suy nghĩ của người xin đoán như thế nào, chỉ cần người đó có ý nghĩ dự đoán, cho dù trong lòng họ có việc quan trọng muốn hỏi hay không, từ trong quái tượng gieo ra luôn luôn có thể suy đoán được một số tình trạng phù hợp với bản thân của người đó. Như vậy, gieo quẻ chỉ là một hình thức trích 18

xuất quái tượng, bất kể là ai đến gieo quẻ đều được, không quan trọng là khi gieo quẻ bản thân người xin đoán phải nghĩ đến sự việc cần dự đoán. Do đó, khi ở phương xa có người gọi điện thoại hoặc gửi thư đến yêu cầu dự đoán, bất kể là bản thân người đó gieo quẻ hay là dự trắc sư gieo quẻ, hoặc là bảo người bên cạnh dự trắc sư gieo quẻ thay đều được, hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến tính chính xác của quẻ. Khi gieo quẻ cũng không cần phải nghĩ là ai gieo quẻ, đoán chuyện gì, cứ dùng quẻ gieo ra để nhận định là được, phương pháp chọn Dụng thần khi đoán quẻ vẫn không thay đổi. Mấy năm gần đây, có người đề xuất khi gieo quẻ mà có mật chú gì đó thì có thể nâng cao tính chính xác của quẻ, họ đem cái này rao bán, lừa gạt tiền bạc của người khác, thực không thể tin. Dự đoán bát quái là một loại nguyên lý ba chiều của vũ trụ, hoàn toàn không liên quan đến quỷ thần. Vì vậy, khi gieo quẻ cũng không cần cầu khấn hay cử hành nghi thức gì, càng không cần niệm mật chú gì đó. Vương Hổ Ứng @@@@@@@@@@@

DỰ ĐOÁN THỜI TIẾT Th1 04

Ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển, sử dụng phương tiện khoa học kỹ thuật, về cơ bản có thể dự báo chính xác sự biến hóa của thời tiết, do vậy có lẽ sẽ có người cho rằng việc tiếp tục nghiên cứu và sử dụng lục hào để dự đoán thời tiết không còn ý nghĩa gì. Thực ra không phải vậy, dự báo thời tiết được công bố trên các phương tiện truyền thông công cộng chỉ là tình hình thời tiết chung chung về một khu vực nào đó, còn tình hình thời tiết mà chúng ta cần thì thường có tính cục bộ, hoặc đôi khi là tình hình thời tiết trong một khoảng thời gian nào đó, hoặc đôi khi không nhìn thấy dự báo thời tiết, muốn biết tình hình thì phải đi tìm.

19

Vả lại, dự đoán thời tiết có thể giúp nâng cao trình độ dự đoán, có thể giúp trải nghiệm cặn kẽ chỗ vi diệu của lục hào. Đối với người mới học mà nói, sử dụng lục hào để dự đoán thời tiết là một trong những phương pháp tốt nhất để nâng cao trình độ dự đoán trong thời gian ngắn. Bởi vì sau khi dự đoán sự việc thông thường, muốn nhận được kết quả phản hồi thì cần phải đợi vài ngày, vài tháng, hoặc thậm chí là vài năm. Dự đoán lục hào cần rất nhiều nghiệm chứng mới có thể nắm được chỗ vi diệu của nó, cho nên nếu chỉ dựa vào dự đoán về việc người để chứng nghiệm, thì phải mất rất nhiều năm mới có thể nắm vững được thuật dự đoán này. Theo kinh nghiệm của cổ nhân và của bản thân tôi:” mỗi ngày dùng lục hào để dự đoán thời tiết có thể coi là một con đường tắt để nắm bắt phương pháp dự đoán lục hào “. Dùng lục hào dự đoán thời tiết thường ít khi sử dụng lục thần, chủ yếu là thông qua ý nghĩa của lục thân mà trích xuất Dụng thần cho phán đoán. Có hào động thì lấy hào động làm trung tâm, không có hào động thì lấy hào Thế hoặc hào vượng tướng, do vậy tương đối thích hợp cho người mới học, nhưng dự đoán đi sâu vào thì cũng có thể kết hợp thêm lục thần. Dự đoán về thời tiết, bởi vì thế giới rộng lớn, cùng một thời điểm thì thời tiết ở các nơi không giống nhau, cho nên khi gieo quẻ thì phải dùng ý thức chỉ định dự đoán về thời tiết một địa phương nào đó hoặc thời tiết của một nơi trong một ngày nào đó thì mới chính xác. MỘT SỐ DỰ ĐOÁN THỜI TIẾT CƠ BẢN

Hào Phụ Mẫu Tùy theo mùa khác nhau, hào Phụ Mẫu có ý nghĩa mưa, tuyết, mưa đá v.v; tùy theo suy vượng khác nhau, Phụ Mẫu có ý nghĩa mưa, âm u. ◆ Hào Phụ Mẫu phát động, hoặc thành tam hợp cục, là thông tin sẽ có mưa. Hào Phụ Mẫu vượng tướng mưa lớn, hưu tù mưa nhỏ. Hào Phụ Mẫu hóa Tiến thần, mưa lớn dần; hóa Thoái thần, mưa nhỏ dần. Hào Phụ Mẫu hưu tù Không Phá, tĩnh mà bị khắc, chủ không có mưa.

20

◆ Phụ Mẫu phát động tương hợp với Nhật, khi xung khai hào Phụ Mẫu có mưa. Nếu bị hào động khác hợp trú, khi xung khai hào hợp hào Phụ Mẫu, hoặc xung khai hào Phụ Mẫu có mưa. ◆ Hào Phụ Mẫu phát động Nguyệt phá, có thể dựa vào quy tắc ứng kỳ Nguyệt phá để quyết định thời gian có mưa. Nếu địa chi Nguyệt phá tương đồng với Nhật, rất có thể hôm đó sẽ có mưa. ◆ Phụ Mẫu Không Vong phục tàng, lại bị khắc thương, đây là thông tin không có mưa, nếu là dự đoán khi nào có mưa, có thể dựa vào quy tắc ứng kỳ Phục thần để phán đoán. ◆ Nếu địa chi của hào Phụ Mẫu và Nguyệt kiến giống nhau, động hóa Tiến thần, Nhật lại là đất Trường Sinh của Phụ Mẫu, có thể sẽ bước vào mùa mưa mận hoặc mưa kèm âm u liên tục. Hào Tử Tôn Tử Tôn là Nhật, Nguyệt, tinh tú, khi dự đoán thời tiết chủ trời tạnh. ◆ Tử Tôn phát động, hoặc thành tam hợp cục là thông tin thời tiết nắng ráo. ◆ Tử Tôn phát động hóa Tiến thần, bầu trời vạn dặm không mây. Hóa Thoái thần, tạnh ráo không lâu. ◆ Phụ Mẫu phát động hóa Tử Tôn, là thông tin âm u chuyển quang đãng, sau mưa xuất hiện cầu vồng, mặt trời ra khỏi mây. Cần dựa vào hiện tượng thời tiết vùng miền khác nhau và mùa khác nhau mà phán đoán linh hoạt. ◆ Hào Tử Tôn phát động, nếu lâm Nguyệt phá, Không Vong, có thể dựa vào quy tắc ứng kỳ của Nguyệt phá, Không Vong mà phán đoán. Hào Thê Tài Thê Tài chủ tạnh, nhưng không quang đãng nhiều, đôi khi có chút ít mây. ◆ Phụ Mẫu hưu tù, Thê Tài phát động thành tam hợp cục, chủ quang đãng.

21

◆ Thê Tài phát động hóa Tử Tôn, trời nắng ráo, không có mây đen. ◆ Thê Tài phát động hóa Tiến thần chủ quang đãng, phát động hóa Thoái thần chủ quang đãng mà không lâu, mây đen tăng dần. ◆ Thê Tài phát động hóa Huynh Đệ, trời trong chuyển nhiều mây, hoặc trời trong mà có gió. ◆ Thê Tài phát động hóa Quan Quỷ, trời trong chuyển mây dày, hoặc trời trong chuyển âm u. ◆ Dự đoán trời trong, Thê Tài phát động thường là trời trong, nhưng bị Nhật hợp, lúc xung khai Thê Tài chuyển trong. Thê Tài phục tàng, khi xung xuất Thê Tài, hoặc xung khai Phi thần, hoặc Thê Tài xuất hiện thì trời trong. Thê Tài gặp Không Vong, Nguyệt phá, thì khi Thực Không, Thực Phá, Xung Không, Hợp Phá thì trời trong. Hào Huynh Đệ Huynh Đệ chủ gió, cũng chủ mây. ◆ Huynh Đệ phát động, hoặc thành tam hợp cục là thông tin có gió. Vượng tướng gió lớn, hưu tù gió nhỏ. ◆ Huynh Đệ phát động hóa Tiến thần, gió lớn dần, mây tăng dần. Hóa Thoái thần, gió nhỏ dần. ◆ Hào Huynh Đệ tại cung Tốn phát động, vượng tướng là bão, gió mạnh, và hào Phụ Mẫu đồng thời phát động, sẽ có mưa bão xuất hiện Hào Quan Quỷ Quan Quỷ chủ sấm sét, sương mù, mây dày, phải căn cứ vào mùa khác nhau mà phán đoán linh hoạt. ◆ Quan Quỷ tại cung Chấn phát động, thường có sấm xuất hiện. Và hào Phụ Mẫu đồng thời phát động, là sấm và mưa cùng đến. ◆ Hào Quan Quỷ độc phát, căn cứ vào mùa khác nhau, đôi khi có mưa, đôi khi chỉ có sấm không có mưa, đôi khi là thông tin trời âm u.

22

◆ Quan Quỷ và Thê Tài đồng thời phát động, chính là thông tin trời nắng chuyển nhiều mây, hoặc chuyển âm u. ◆ Quan Quỷ phát động hóa Phụ Mẫu, trời âm u chuyển mưa; hóa Tử Tôn, âm u chuyển quang đãng. MỘT SỐ VÍ DỤ DỰ ĐOÁN THỜI TIẾT

Xin đưa ra 1 vài ví dụ luận đoán, nếu muốn biết chi tết hơn kính mời tìm đọc cuốn Tế Thuyết Lục Hào Dự Trắc Học Ví dụ 1: Ngày Bính Thìn tháng Ngọ, khi tôi vừa đến một khách sạn ở Tây Tạng, một bằng hữu từ Bắc Kinh gọi điện thoại đến, nói rằng buổi tối phải tổ chức buổi hòa nhạc cho trẻ em, nhưng Bắc Kinh đang có mưa, ảnh hưởng đến việc tổ chức buổi hòa nhạc, hỏi mưa có ngừng không? Tôi gieo quẻ được Hỏa Sơn Lữ biến Thiên Phong Cấu.

Phán đoán: Lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng thần. Phụ Mẫu Mão mộc phục dưới hào sơ Tử Tôn Thìn thổ, không được Nhật Nguyệt sinh phù, lại nhập Mộ ở Tử Tôn Mùi thổ, đây là tượng ngừng mưa chuyển quang đãng, Tử Tôn Mùi thổ vượng tướng phát động, cũng là thông tin trời quang đãng, tôi lập tức nói với cô ấy, mưa sẽ sớm chấm dứt. Kết quả: Quả nhiên ứng nghiệm. Ví dụ 2: Một người thân của tôi không tin vào dự đoán lục hào, khi đó trời đã mưa kèm âm u hơn mười ngày không ngớt, tôi nói với anh ta rằng lục hào không những đoán được chuyện của người mà còn có thể dự đoán được thời tiết, thế là anh ta hỏi khi nào trời tạnh. Ở ngày Mậu 23

Tuất tháng Thân, tôi gieo được quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân biến Thiên Lôi Vô Vọng.

Phán đoán: Trong quẻ Quan Quỷ Hợi thủy độc phát, lấy hào động để xem sự biến hóa của thời tiết. Quan Quỷ chủ âm u, tuy được Nguyệt sinh, nhưng bị Nhật khắc, lại động mà hóa hồi đầu khắc, nhập Mộ ở hào biến, đây là thông tin âm u sẽ mất, chuyển thành tạnh ráo. Quan Quỷ lâm Hợi thủy đối ứng với địa chi ngày hôm sau, tôi đoán giờ Thìn ngày hôm sau mặt trời sẽ lộ ra, thời tiết trở nên quang đãng. Kết quả: Quả nhiên ở giờ Thìn ngày hôm sau thì mặt trời từ trong mây lộ ra, giờ Tị trời trong vắt. @@@@@@@@@

KHOẢNG CÁCH NHÂN DUYÊN Th5 12

Khoảng cách nhân duyên chính là phán đoán về khoảng cách gần xa giữa người nam và người nữ trong quá trình luận đoán hôn nhân hoặc nhân duyên. Kết hợp với phương vị nhân duyên thì quá trình luận đoán sẽ càng thêm đa dạng và phong phú, càng khai thác được nhiều thông tin hơn.

24

Phán đoán cơ bản về khoảng cách nhân duyên Dụng thần xuất hiện tại nội quái, lâm hào Thế, quẻ quy hồn, phục tàng dưới hào Thế, là ở gần, người cùng quê. Tại ngoại quái, lâm hào Ứng, quẻ du hồn, phục tàng không hiện, là phương xa, người khác xứ. Giữa hào Thế và Dụng thần có hào khác phát động gọi là ngăn cách, cũng biểu thị là người phương xa. Hào Thế và Dụng thần cùng cung là người quen biết. Cùng cung là địa chi hào Thế và Dụng thần đều đóng tại quái cung giống nhau. Cùng cung có ý nghĩa đồng nghiệp, thân thích, bạn học, đồng hương, hàng xóm, đồng hành, chung tín ngưỡng,… Phân biệt cụ thể xem hào Thế hoặc Dụng thần lâm lục thần: Thanh Long là bạn bè thân thích; Câu Trần là đồng nghiệp, đồng hương; Đằng Xà là đồng hành, người chung đam mê; Bạch Hổ là bạn đường; Huyền Vũ là chung tín ngưỡng. Cũng có thể tham khảo 12 cung trường sinh để trích xuất thông tin. Ngoài ra, phương cục cũng biểu thị hai người vốn có mối quan hệ nào đó. Phương cục là Dần Mão Thìn phương Đông cục, Tị Ngọ Mùi phương Nam cục, Thân Dậu Tuất phương Tây cục, Hợi Tý Sửu phương Bắc cục. Phương cục cũng biểu thị đồng nghiệp, thân thích, bạn học, đồng hương, hàng xóm, đồng hành, chung tín ngưỡng,… Phán đoán phần lớn lấy lục thần hào Thế làm chủ, trong quẻ tĩnh, hào vượng tướng và Nhật Nguyệt đều có thể cùng hợp thành phương cục. Trường hợp có hào động, hào động, hào biến, hào ám động, Nhật Nguyệt,… đều có thể cùng hợp thành phương cục. Ngoài ra còn có hai tổ hợp đặc thù là phương hợp. Ngọ Mùi là phương Nam hợp, Tý Sửu là phương Bắc hợp, cũng biểu thị có mối quan hệ, phương pháp phân biệt có thể tham khảo phương cục và cùng cung.

25

Ví dụ về khoảng cách nhân duyên Ngày Nhâm Thìn tháng Thân năm Mậu Dần, nữ (sinh năm 1963) đoán hôn nhân, được quẻ Sơn Phong Cổ biến Sơn Thủy Mông.

Lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Quan Quỷ Dậu kim trì Thế, được Nguyệt trợ giúp và Nhật đến sinh là vượng tướng. Trì Thế biểu thị có, chứng tỏ là người đã kết hôn. Quan Quỷ Dậu kim độc phát, phán đoán ứng kỳ là động mà gặp trị gặp hợp, lại kết hợp tuổi tác suy đoán là năm 88 Mậu Thìn kết hôn. Tử Tôn Tị hỏa phục tàng, phục tàng ứng xuất hiện, năm 89 Kỷ Tị sinh con. Nhưng Quan Quỷ Dậu kim phát động hóa hồi đầu khắc, hóa Không, hào Ứng phu vị Nguyệt phá, hôn nhân rất khó đến cùng. Trong quẻ Quan Quỷ Dậu kim là Đào Hoa và Nhật Thìn thổ tương hợp, Thê Tài Tuất thổ ám động sinh Quan Quỷ, Thê Tài là phụ nữ, ám động là có người phụ nữ thầm yêu thích anh ta, chính là bởi vì người thứ ba chen chân vào dẫn đến hôn nhân bất ổn. Hào Thế, hào ám động Tuất thổ và Nguyệt kiến Thân kim tạo thành phương cục Thân Dậu Tuất, tôi đoán người thứ ba xen vào gia đình là bạn học của cô. Bởi vì hào Thế lâm Chu Tước, có ý nghĩa văn thư, học tập, cho nên là bạn học.

26

Tuất thổ ám động sinh Quan Quỷ, Tuất thổ tương ứng với năm Giáp Tuất, tại năm 94 Giáp Tuất bạn học vụng trộm với người đàn ông của cô. Hào Ứng phu vị Nguyệt phá, năm 95 Ất Hợi hợp phá, Phụ Mẫu Hợi thủy đại diện giấy chứng nhận kết hôn nhập Mộ ở Nhật, biểu thị năm trị Hợi thủy đã thu hồi giấy chứng nhận kết hôn, do đó đoán năm 95 cô ấy đã ly dị. Năm này hào Ứng thực phá, tuy có đối tượng, nhưng là Tuyệt địa Quan Quỷ nên khó thành. Hiện nay Quan Quỷ Dậu kim và Nhật tương hợp, năm 99 Kỷ Mão xung khai, nên có niềm vui tái hôn, nhưng Quan Quỷ động hóa hồi đầu khắc, hóa Không, hôn nhân rất khó như ý. Phản hồi: Quả nhiên là chồng đã thường xuyên lui tới nhà bạn học. Năm 88 kết hôn, năm 89 sinh con, năm 94 chồng ngoại tình, năm 95 ly dị với cô. Năm 98, tuy có người giới thiệu đối tượng nhưng không hợp ý nên không thành. Đối với phán đoán về năm 99 thì không phản hồi nên không biết kết quả. @@@@@@@

PHÁN ĐOÁN ĐƯỜNG ĐI TRONG DỰ ĐOÁN PHONG THỦY Th5 08

Phương pháp phán đoán đường đi trong dự đoán phong thủy rất hay gặp trong quá trình luận đoán, dự đoán phong thủy bằng lục hào. MỘT SỐ PHÁN ĐOÁN CƠ BẢN VỀ ĐƯỜNG ĐI TRONG DỰ ĐOÁN PHONG THỦY

Lấy hào 5 để phán đoán, lục thân thì xem Tử Tôn, lục thần thì xem Bạch Hổ. Tử Tôn xung hào 3, hào 5 xung hào 3, hào lâm Bạch Hổ xung hào 3, là có đường xung cửa. Xung hào 2 là đường đi xung trạch (nơi ở). Xung hào sơ là xung nền móng…, bất lợi cho người. 27

Lâm Thanh Long sinh hợp hào Thế, hào 2, đường đi cát lợi, khí trường lưu thông; khắc hào Thế, bị bệnh, tai họa liên miên. •

Tăng San Bốc Dịch Bình Thích



Lục Hào Quái Lệ Thuyết Chân

Hào 5 hưu tù lâm Đằng Xà là đường đi chật hẹp, hóa thoái nhập Mộ là ngõ cụt. Hào 5 hợp hào 2 hào trạch là đường và nhà song song, bán hợp cục là ngã 3 hình chữ 丁, tam hợp cục là ngã ba đường, gặp xung là ngã tư. Hào 5 Nguyệt phá là đường đi không bằng phẳng, gồ ghề, lại gặp Nhật hợp trú là đã từng tu bổ. Nếu chỉ là Nhật hợp thì đường đi thường xuyên tắc nghẽn không thông. Hào 5 lâm thủy gặp Tử Tôn hợp, có sông ngòi song song với đường. Hào 5, hào Tử Tôn gặp Nhật xung, hào động xung, đường đi dốc nghiêng; Không Vong là cầu, cũng có thể là có hố. Phụ Mẫu lâm Đằng Xà hợp hào 5, hoặc nhập Mộ tại Phụ Mẫu Câu Trần, là đường hầm. Lâm kim là đường sắt. Hào 5 lâm Câu Trần phát động là đường đi có công trình cải tạo. Hóa Tiến thần là mở rộng đường, hóa Thoái thần là thu hẹp đường. Hào 5, hào Tử Tôn lâm Đằng Xà sinh hợp hào Thế là hoàn bão lộ[1], xung khắc hào Thế là đường phản cung. Vị trí thì lấy quẻ, hào biến, địa chi… để phán đoán. Chỗ hợp, hào biến là hướng mở rộng. Bạch Hổ thêm Câu Trần là đường dốc. Lâm Đằng Xà, Bạch Hổ là đường vành đai, đường vòng. Thanh Long là đại lộ, quốc lộ. Câu Trần là đường cũ. Huyền Vũ là đường lầy lội, đường tối tăm.

28

Lấy sinh khắc của hào trong quẻ để phán đoán cát hung do đường đi mang lại. Có trường hợp ứng vào bệnh tật, có trường hợp ứng vào tài vận, có trường hợp ứng vào tai họa, có trường hợp ứng vào tính cách, có trường hợp ứng vào hôn nhân,… Căn cứ vào quái tượng mà phán đoán một cách linh hoạt. [1] Là con đường bao quanh nhà giống như vòng cầu vồng. VÍ DỤ VỀ PHÁN ĐOÁN ĐƯỜNG ĐI TRONG DỰ ĐOÁN PHONG THỦY

Ngày Tân Mão tháng Hợi, nam ra ngoài phát triển kinh doanh, đoán phong thủy của căn nhà đã thuê, được Phong Hỏa Gia Nhân biến Sơn Hỏa Bí.

Phán đoán: Ngoài vấn đề thoải mái và an toàn, căn nhà được thuê cũng phải có phong thủy tốt để giúp cho việc kinh doanh được thuận lợi. Thê Tài Sửu thổ trì Thế, Tử Tôn phát động sinh hào Thế vốn là cát tượng, nhưng Thê Tài Mùi thổ Không Vong, Nguyệt không trợ giúp, Nhật lại đến khắc, vì vậy chỗ được thuê không tụ tài. Hào 2 là trạch, lâm Huyền Vũ, Huyền Vũ chủ riêng tư, vì vậy nơi ở là nhà ở tư nhân. Lại Huyền Vũ chủ lạnh lẽo, Nguyên thần Tị hỏa bị Nguyệt xung phá, hóa hồi đầu khắc, hỏa là nhiệt độ, chủ trong phòng nhiệt độ thấp, không thoải mái. Hào 4 là cửa sổ, lâm Không Vong chủ cửa sổ có khe hở, đóng không kín. Mùi thổ tương ứng Tây Nam, chủ cửa sổ tại Tây Nam. Hào Thế bị Nhật mộc đến khắc, mộc chủ phong, cung Tốn lại là phong, có gió thổi vào trong phòng.

29

Hào 5 là đường đi, Nguyệt phá, hồi đầu khắc, không thể sinh hào Thế. Hào Thế tại hào 2 là nhà, hào 5 sinh hào 2 là đường về nhà, nhưng hào 5 Nguyệt phá hưu tù, lực sinh giảm thiểu, chủ đường về nhà không thuận lợi, quanh co. Lại lâm Câu Trần chủ chậm chạp, đường về nhà mất nhiều thời gian. Thê Tài hưu tù, Nguyên thần bị khắc, hồi đầu khắc, lại Nguyệt phá, thiếu lực sinh Thê Tài, tài vận không tốt đẹp. Kinh doanh ở đây nhất định sẽ không có hiệu quả. Phản hồi: Mọi thứ đúng như biểu thị trên quái tượng. Sau một mùa đông không có thu hoạch đã quay về. —————— @@@@@@@

KHÔNG VONG TRONG DỰ ĐOÁN LỤC HÀO

Th4 28

Trong dự đoán lục hào, Nhật thần của một ngày được biểu thị bằng tổ hợp của thiên can và địa chi. Thiên can 10 vị trí, địa chi 12 vị trí, cứ 60 ngày lặp lại một lần, 10 ngày 1 tuần, tổng cộng 6 tuần. Khi phối hợp can chi, trong mỗi tuần đều có hai vị trí địa chi không có thiên can phối hợp, gọi là Tuần Không. Tuần Không rất quan trọng trong 30

dự đoán lục hào, nó liên quan đến cát hung và ứng kỳ của sự vật, mỗi quẻ đều cần phải xét rõ. Tuần Không còn được gọi là lục giáp không vong, lục giáp là chỉ Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần. Không Vong trong mỗi tuần như sau: Trong tuần Giáp Tý thì Tuất Hợi Không, trong tuần Giáp Tuất thì Thân Dậu Không, trong tuần Giáp Thân thì Ngọ Mùi Không, trong tuần Giáp Ngọ thì Thìn Tị Không, trong tuần Giáp Thìn thì Dần Mão Không, trong tuần Giáp Dần thì Tý Sửu Không.

Bảng tra nhanh Lục Giáp Không Vong Lục giáp không vong, ở trong tuần đó Không Vong, một khi ra khỏi tuần thì không còn Không Vong nữa, mà Không Vong đã chuyển sang hai vị trí địa chi khác. Khi dự đoán về bệnh tật, Dụng thần gặp Tuần Không, nếu là bệnh gần, ngày, tháng Thực Không, xung Không thì khỏi bệnh. Nếu là bệnh lâu gặp Không, ngày, tháng Thực Không, xung Không thì hung. Trong quẻ gặp Nguyên thần Tuần Không phát động, ngày, tháng xung Không, Thực Không khỏi bệnh; Kỵ thần Tuần Không phát động, ngày, tháng Kỵ thần Thực Không, xung Không gặp hung.

31

Hào Tuần Không nếu tĩnh mà bất động, thì chia ra hữu dụng và vô dụng. Hào Không mà vượng tướng, có Nhật, Nguyệt, hào động sinh phù, thì là hữu dụng; hào hưu tù Tử Tuyệt, thì là vô dụng. Dụng thần sợ hưu tù Không Phá, không có sinh phù, Kỵ thần nên hưu tù Không Phá, tĩnh mà bất động. Phi thần nên Tuần Không, bị khắc, gặp xung (khi Phi thần là Kỵ thần). Nói chung, Tuần Không phát động thì có thể khởi tác dụng, hào vượng tướng gặp Không cũng có sức mạnh tham gia sinh khắc; hào có Nhật, Nguyệt, hào động sinh phù, Không Vong cũng có sức mạnh; hào động mà hóa Không, hào Phục mà vượng tướng, đều là có khí, sẽ không Không đến cùng. Chỉ khi hào phá mà lại suy, vô khí bất động, phục mà bị khắc gặp Tuần Không, thì mới không có sức mạnh. Ví dụ về Không Vong Ví dụ: Ngày Mậu Tý tháng Ngọ, một chiến sĩ lực lượng cảnh sát vũ trang đoán cát hung, được quẻ Trạch Sơn Hàm.

Phán đoán: Lấy hào Thế làm Dụng thần. Hào Thế bị Nguyệt kiến khắc, Nhật thần không sinh là hưu tù.

32

Kỵ thần Quan Quỷ Ngọ hỏa được Nguyệt tỉ phù, gặp Nhật xung, là ám động. Kỵ thần ám động khắc Thế, Kỵ thần là Quan Quỷ, Quan Quỷ chủ bệnh, Thế lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ chủ bệnh, tất có bệnh tai. Nay Ngọ hỏa Tuần Không, ngày Giáp Ngọ xuất Không, Kỵ thần xuất Không, hào Thế nhất định gặp tổn thương. Quẻ thuộc cung Đoài, Đoài là kim, kim là ruột già, tượng ruột già có bệnh. Sáu ngày sau, Kỵ thần xuất Không, nhất định có kiết lỵ. Kết quả: Có kiết lỵ ở ngày Giáp Ngọ, mắc bệnh hơn một tháng mới khỏi. @@@@@@@

DỰ ĐOÁN TÌM NGƯỜI BẰNG BÁT QUÁI TƯỢNG SỐ Th8 06

Một trong những ví dụ về dự đoán tìm người đi lạc hoặc bỏ nhà ra đi của Hoàng Giám đại sư. 9:45 sáng ngày 23 tháng 8 năm 1996, Triệu ** (nhân viên tài vụ của nhà máy) cho biết cha của anh rể ra ngoài hơn một tháng bặt vô âm tín, người nhà lo lắng vô cùng, đã thông báo tìm cha trên đài truyền hình, lại dán thông báo tìm người ở khắp nơi, người nhà và thân hữu tìm kiếm khắp nơi đều không thấy tăm tích. Do đó, Triệu đến tìm tôi nhờ đoán cát hung của người này. Dựa vào giờ Tị ngày 10 tháng 7 năm Bính Tý để lập quẻ, được Tụy biến Bĩ.

Đoán: Bởi vì người đó tinh thần thất thường, ra ngoài chạy lung tung, lành ít dữ nhiều. Hướng đi là đã tới Quý Châu. Sau khi đoán đến nay vẫn bặt vô âm tín. Người trong nhà anh ta cũng đều cho rằng cha đã không còn trên nhân thế.

33

Phân tích: Quẻ chính gặp thượng quái Đoài là khuyết tổn, cho nên đại não thất thường, Khôn là âm là bệnh thái (trạng thái không bình thường về sinh lý hoặc tâm lý), Tốn là gió là đi lại lung tung vô định, Đoài biến Càn, hướng từ Tây đến Tây Bắc. Quẻ hỗ Tốn là mộc, trực quan quái tượng, quan tài đặt ở trên đồi, lại thêm quẻ biến Càn là cứng đờ, hạ là Khôn là đất, là tượng cương thi nằm đất, cho nên lành ít dữ nhiều, khó sống sót trở về.

LỜI TỰA Duyệt xong bản thảo Dịch hồn, mặc dù tôi đã có một chút nhận thức nông cạn đối với “Bát quái dự trắc pháp”, nhưng chẳng vội vàng bàn luận, trái lại nảy sinh ý định muốn thử xem sao. Giờ Tuất ngày 4 tháng 10 năm Bính Tý, tôi mang theo vợ đến bệnh viện thăm viếng một nữ bệnh nhân họ Tưởng, lúc gặp mặt, do tâm động mà lập quẻ, được Tổn biến Di:

Đoán: Người bị bệnh vùng bụng ở mùa thu, đã tốn kém 2700 tệ, Cấn thổ bị Đoài tiết, nhược mà bị vượng mộc khắc, lại chủ không có sinh phù, đại hung, ứng nghiệm ở ngày thứ 47. Nói với vợ, vợ không cho là đúng, tôi cũng hoài nghi điều này. Bởi vì khi đó khí sắc của người bệnh bình thường, chỉ có chứng khó chịu ở vùng bụng, hơi trướng bụng một chút, chứng chán ăn v.v, bác sĩ hóa nghiệm nhiều lần cũng không thể chẩn đoán chính xác. Tuy nhiên, đến ngày 22 tháng 11, vợ nhận được điện thoại nói rằng bệnh nhân đó đã chết ở rạng sáng cùng ngày. Đoán vừa khớp 47 ngày! Sự thực khiến tôi không thể không kinh ngạc về sự thần kỳ của Dịch hồn. Bởi vì phương thức lập quẻ và tư duy đoán quẻ của ví dụ này đều sử dụng “Bát quái dự trắc pháp” được trình bày trong sách. Sau đó, thường dựa vào phương pháp này để luyện tập, cũng liên tiếp ứng nghiệm. Bát quái dự trắc pháp là một phương pháp dự đoán cổ phác (phong cách cổ xưa) giản dịch, lấy thời gian hoặc vật tượng lập quẻ, lấy tượng và số của quẻ thu được kết hợp ngũ hành sinh khắc để tiến hành đoán quẻ. Nói nó cổ phác, là bởi vì nó trực tiếp lấy quái tượng và quái số để đoán quẻ, có tính nguyên thủy và tính trực giác, đôi khi thậm chí vừa 34

xem đã hiểu ngay, buột miệng nói ra chuẩn xác không sai (chẳng hạn như ở ví dụ trên, Cấn là 7, là chỉ (dừng), là dĩ nội (trong vòng, trong khoảng), Chấn là 4, cho nên đoán là 47, vừa xem đã hiểu ngay); nói nó giản dịch, là bởi vì nó cổ phác mà không tối nghĩa, thông tục dễ hiểu, nó không câu nệ cổ pháp, không cần phải lấy cỏ thi hoặc đồng tiền và trải qua một trình tự lập quẻ phức tạp, thậm chí có thể không cần người xin đoán cung cấp thông tin cụ thể như sinh thần bát tự v.v, mà là “quái do tâm sinh, tùy tâm sở dục”, là một phương pháp dự đoán kiểu chủ động. Phương pháp này chủ trương “đại đạo chí giản”, “phản phác quy chân”. Nó chỉ trung thành với phản ánh của quái tượng, đem tượng, số, lý nấu chảy tại một lò tiến hành khảo sát toàn phương vị, từ đó tìm ra vị trí tọa độ của sự vật hoặc người ở trong loại ký hiệu này. “Dịch hồn” đã trình bày thấu triệt kiến thức cơ bản về “Bát quái tượng số dự trắc pháp”, đồng thời giảng giải kèm theo hàng loạt ví dụ thực tế, khiến độc giả vừa nhìn là hiểu, vừa học là biết, điều này tương đối mới mẻ trong biển sách dự đoán hiện này. Hơn nữa, điều hiếm thấy là Hoàng Giám đại sư ở trong sách đã hoàn toàn không che giấu tư duy đoán quẻ của mình, đã nói rõ linh hồn của Dịch, chắc chắn có ý nghĩa dẫn dắt đặc biệt đối với việc khai ngộ tư duy của người cùng sở thích dự đoán, nhất là người mới học. Trong sách đề xuất “pháp ngoại vô pháp, pháp vô định pháp”, quan điểm thoạt nhìn có vẻ như mâu thuẫn, nhưng vẫn dựa vào nhau mà tồn tại ở trong thể thống nhất mâu thuẫn như vậy, đồng thời lại xuyên suốt từ đầu đến cuối quá trình dự đoán. “Pháp ngoại vô pháp” là chỉ lập quẻ, đoán quẻ có cách thức và tính quy luật nhất định; “pháp vô định pháp” lại chỉ tính quy luật của nó không phải nhất thành bất biến, không phải công thức hóa một cách máy móc, mà là “vi đạo dã lũ thiên” (đạo luôn luôn biến thiên). “Đạo” là quy luật vận động của sự vật, “thiên” là sự vận động của quy luật. Do đó, trong sách nhấn mạnh, lập quẻ không nên rập theo một khuôn khổ, bạn quen dùng phương thức nào thì dùng phương thức đó, thông tin sẽ hiển hiện theo tập quán của mỗi người. Dựa trên quan điểm này, tác giả mạnh dạn chỉ ra rằng, sai lầm bản thân cũng là một loại thông tin một loại duyên phận, nên đã sai theo sai, nếu người dự đoán biết sai liền sửa, trái lại sẽ uốn cong thành thẳng, mất đi thời cơ nắm bắt thông tin, kết luận thu được cũng sẽ là sai lầm. Đây là phép biện chứng duy Dịch vận dụng linh hoạt trong dự đoán học. Đối với nghiên cứu phép biện chứng duy Dịch, Hoàng Giám đại sư không những có trình độ lý luận rất sâu, mà còn đạt được thành quả to lớn trong thực tiễn dự đoán, khiến cho người đời vô cùng chú ý. “Bát quái dự trắc pháp” của ông sáng tạo sẽ làm cho dự đoán học cổ xưa bước lên một giai đoạn phát triển mới.

35

Mấy lời dông dài trên đây là nhận thức mà tôi thu được từ trong bản thảo, là ý kiến của bản thân đối với “Bát quái dự trắc pháp”. “Dịch hồn” giản đơn mà uyên bác, các độc giả cần hiểu rõ đạo lý của nó trong quá trình đọc và luyện tập. Tăng Hỷ Đạt @@@@@@@@

HÓA GIẢI BỆNH TẬT BẰNG BÁT QUÁI TƯỢNG SỐ Có một người bị đau đầu, lại nổi vết trầy đỏ, nhờ chẩn bệnh. Lập quẻ, được Cách biến Tùy.

Ví dụ về hóa giải bệnh tật Đoán: Nguyên nhân là do đã động chạm sợi dây màu đỏ ở phía Đông. Bệnh nhân nói: “Đúng là đã kéo dây điện.” Phân tích: Quẻ dụng là Ly là màu đỏ, quẻ dụng hỗ là Tốn là sợi dây, Ly động hóa thành Chấn mộc, Chấn mộc lại hồi đầu sinh Ly hỏa, và khắc thể; quẻ chính, quẻ biến thượng hào 6 là hào âm, vị trí hào tượng là phần đầu có bệnh; ngoài ra quẻ biến Đoài kim khắc Chấn mộc, cũng là quái tượng đầu bị khắc có bệnh, cho nên đau đầu. Phương thuật: Hôm đó vừa đúng ngày Mùi tháng Mùi, bảo người nhà của người đó tại giờ Mùi gỡ bỏ dây điện ở phía Đông, lấy một chén nước đã đun sôi cho người bệnh uống, đồng thời khẳng định ngày thứ hai bệnh tình giảm bớt, ngày thứ sáu khỏi bệnh. Dịch lý: Giờ Mùi ngày Mùi tháng Mùi là Tam Mộ của Chấn mộc, gỡ bỏ dây điện là loại bỏ Ly hỏa khắc quẻ thể, đồng thời khiến quẻ biến Chấn mộc nhập Mộ, do đó loại bỏ Nguyên thần Chấn mộc của quẻ dụng Ly 36

hỏa. Uống nước, là dùng thủy chế hỏa. Mùi là thổ, sinh quẻ thể Đoài kim, ngày thứ hai và ngày thứ ba là ngày Thân Dậu kim vượng, quẻ thể Đoài kim đắc thế. Ngày thứ tư Tuất thổ đương trị, sinh Đoài kim quẻ thể, quẻ thể gặp sinh được trợ, bệnh tình đương nhiên giảm bớt, ngày thứ năm, ngày thứ sáu là ngày Hợi, ngày Tý, thủy đương trị mà khắc hung thần Ly hỏa, cho nên ngày thứ sáu khỏi bệnh. @@@@@@@@

37