Lý Thuyết Hành Vi Tạo Tác Của Skinner [PDF]

  • 0 0 0
  • Gefällt Ihnen dieses papier und der download? Sie können Ihre eigene PDF-Datei in wenigen Minuten kostenlos online veröffentlichen! Anmelden
Datei wird geladen, bitte warten...
Zitiervorschau

LÝ THUYẾT HÀNH VI TẠO TÁC CỦA SKINNER 1. Cấu trúc nhân cách Được thể hiện theo mô hình sau: S -r- s - R (Kích thích - hành vi củng cố - hành vi lặp lại) 1. 1. Hành vi tạo tác Theo B. F. Skinner, cả động vật và người có ba dạng hành vi: hành vi không điều kiện(có cơ sở phản xạ bẩm sinh), hành vi có điều kiện( phản xạ có điều kiện cổ điển) và hành vi tạo tác (phản xạ có điều kiện tạo tác), gắn với tên tuổi những người phát hiện ra chúng:R. Descarte, I. Pavlov và B. F. Skinner. B. F. Skinner cho rằng, sự khác biệt đầu tiên giữa hành vi có điều kiện với hành vi tạo tác là hành vi có điều kiện xuất hiện nhằm tiếp nhận một kích thích củng cố, còn hành vi tạo tác nhằm tạo ra kích thích củng cố. Theo thuyết hành vi tạo tác, nhiều trả lời của cơ thể không phải do một kích thích không điều kiện nào đó gây ra, tức là trước trả lời đó không có một sự kiện nào đó xảy ra mà do tự cơ thể phóng ra. Các phản ứng nảy sinh đẻ trả lời kích thích vô điều kiện và kích thích có điều kiện, Skinner gọi là cácc phản ứng loại S. Ông xếp các loại phản xạ có điều kiện được nghiên cứu trong trường phái Pavlov thuộc loại S. Còn trong trường hợp hành vi tạo tác thì động vật khi bị rơi vào một hoàn cảnh do người thực nghiệm tạo ra. Ví dụ: rơi vào “ Lồng Skinner”, thoạt đầu động vật làm các thao tác( cử động ) ngẫu nhiên, trong đó có cái đúng, tức là đi đúng hướng, có kích thích củng cố, và như vậy là các thao tác đúng được củng cố. Các phản ứng do cơ thể tự phóng ra kiểu đó, Skinner xếp vào loại R và được gọi là hành vi tạo tác. Theo ông, “thực chất của loại hành vi S là ở chỗ thay một kích thích này bằng một kích thích khác, hay như I. Pavlov đã chỉ ra rằng ở chỗ quá trình tín hiệu hóa. Loại hành vi này chuẩn bị cho cơ thể có trả lời trước khi kích thích không điều kiện ngẫu nhiên, và xảy ra đồng thời ngay kích thích không điều kiện và thay thế kích thích không điều kiện tác động vào cơ thể. Trong loại R cũng có loại thay thế này, nhưng không có quá trình tín hiệu hóa. Loại này tác động theo con đường khác: trong vô số các cử động không điều kiện có thể chọn những cái nào mà sự lặp lại chúng giữ vai trò quan trọng đối với việc nhận kích thích nào đó, trả lời có điều kiện loại R không chuẩn bị để tiếp nhận một kích thích củng cố, mà tạo ra kích thích củng cố”. Thực ra, trong các phản xạ có điều kiện cổ điển, vai trò tín hiệu, báo trước sự xảy ra phản ứng không điều kiện,thuộc về các kích thích có điều kiện, còn trong phản xạ tạo tác,vai trò đó thuộc về phản ứng không điều kiện được củng cố, do chính con vật gây ra. Một khác biệt nữa giữa hành vi đáp ứng với hành vi tạo tác là hành vi tạo tác tác động đến môi trường bao quanh cơ thể, trong khi hành vi đáp ứng không làm điều đó. Con chó làm thực nghiệm trong thí nghiệm cuả Pavlov bị xích không thể làm điều gì khác ngoài phản ứng(chẳng hạn như tiết nước bọt), khi nghiệm viên đưa ra kích thích nào đó đối với nó. Tự chó không thể làm gì được đẻ lấy được thức ăn. Ngược lại, hành vi tạo tác của chuột trong lồng Skinner là mang tính công cụ có ý nghĩa là chuột lấy được thức ăn ( kích thích) khi chuột nhấn đòn bẩy, mới nhận được thức ăn, còn nếu như không nhấn được đòn bẩy thì không nhận được thức ăn, tức là chuột đã tác động tới môi trường xung quanh. (B. F. Skinner rất thích thuật ngữ “chiếc lồng Skinner” do K. Hull đưa ra lần đầu tiên vào năm1933. Chính ông gọi nó là thiết bị hình ảnh phản xạ có điều kiện tạo tác. Thuật ngữ “chiếc lồng Skinner” đã trở thành phổ biến, đến mức nó đã đi vào tất cả các sách tra cứu và hiện nay được thừa nhận chung trong tâm lý học). Như vậy về cơ chế sinh học, cả hành vi có điều kiện cổ điển lẫn hành vi tạo tác đều có cơ sở là phản xạ có điều kiện, nhưng chúng khác nhau về tính chủ động của hành vi cơ thể đối với kích thích môi trường . Về nguyên tắc, cả hai đều là sơ đồ trực tiếp S-R. Điều khác cơ bản là trong sơ đồ cổ điển S-R, các kích thích (S) đóng vai trò tín hiệu, còn trong sơ đồ tạo tác vai trò tín hiệu này được chuyển vào trong hành vi củng cố. Nói cách khác, trong sơ đồ hành vi tạo tác, hành vi củng cố ( do con vật tạo ra) có vai trò kích thích là(S) trong sơ đồ S-R. Vì vậy, có thể diễn đạt mối quan hệ này trong công thức S-r-s-R. Măc dù bản chất trực tiếp kích thích phản ứng là hiển nhiên trong cả hai sơ đồ. Nhưng rõ ràng, trong sơ đồ hành vi tạo tác, tính chất chủ động và tự do tác động của cá thể đối với môi trường là lớn hơn rất nhiều so với sơ đồ cổ điển. Điều này đã dẫn B. F. Skinner đến kết luận, hành vi tạo tác đặc trưng

cho việc học tập hàng ngày vì thông thường hành vi mang tính tạo tác, nên cách tiếp cận có hiệu quả nhất đối với khoa học về hành vi là nghiên cứu điều kiện hóa và sự tắt dần của hành vi tạo tác. Các thực nghiệm truyền thống của thuyết hành vi tạo tác được tiến hành trên chim bồ câu hoặc chuột. Cho con vật vào trong (lồng Skinner) trong đó con vật bị tước mất thức ăn và được tạo mọi điều kiện tìm hiểu hộp. Chúng có thể thực hiện các phản xạ đã được bố trí trước, theo ý đồ của nhà nghiên cứu và các kết quả phản xạ được kiểm soát bằng quan sát khách quan (chẳng hạn phản xạ được thiết kế cho chuột là chiếc đòn bẩy nhỏ, còn đối với chim bồ câu thì đó là phản xạ mổ vào đĩa ở bên hông của lồng , những thứ này được nối với các thiết bị kỹ thuật cho phép có thể tự động đo sự vận động của các con vật thực nghiệm) khi con vật chim,chuột được thả vào lồng, lúc đầu chưa biết nhấc chiếc đòn bẩy hay mổ vào đĩa. Trong trường hợp này, người làm thực nghiệm vứt các viên thức ăn cho chuột, mỗi khi nó di chuyển tới gần đòn bẩy. Sau đó chỉ vứt thức ăn khi con chuột chạm vào đòn bẩy(tức là phản xạ mà nhà nghiên cứu muốn hình thành ở chuột). Sự củng cố (vưt thức ăn) được tăng lên theo chiều hướng đến mức con chuột tự phát nhấn đòn bẩy mỗi khi nó có nhu cầu ăn. Trong loại phản xạ này yếu tố củng cố (phần thưởng củng cố hay hình phạt là tác nhân quan trọng, giúp con vật chủ động tạo ra các phản ứng tức là các phản xạ). Điều B. F. Skinner lưu ý mọi người là trong các hành vi của động vật thực nghiệm (ấn đòn bẩy của chuột mổ vào đĩa của chim bồ câu) có tác động đến môi trường xung quanh là công cụ lấy thức ăn . Trong thực nghiệm này biến độc lập(biến thực nghiệm) là kích thích củng cố, còn biến phụ thuộc là tần số xuất hiện, tốc độ và cường độ phản ứng. Sơ đồ thực nghiệm có thể được phức tạp hóa. Chẳng hạn thay vì một đòn bẩy, ta đặt hai chiếc và như vậy phải đặt chuột vào tình huống phải chọn lựa. Từ tập hợp đơn giản các phần tử, tạo thành những kế hoạch đa dạng điều khiển hành vi. Chẳng hạn, chuột nhấn đòn bẩy nhưng chỉ nhận được thức ăn khi và chỉ khi đèn sáng. Sau này khi có đèn sáng , tốc độ phản ứng tăng đáng kể. Hoặc là thức ăn chỉ đưa ra khi nhấn đòn bẩy với một lực nhất định. Sau này chuyển động đòi hỏi lực xuất hiện càng thường xuyên hơn. Có thể gắn chuyển động thành chuỗi(chẳng hạn như phảnn ứng đối với ánh sáng màu xanh dẫn đến sự xuất hiện các tác nhân kích thích mới-ánh sáng màu đỏ, chuyển động đáp lại sự củng cố). Nghiệm viên cũng có thể thay đổi thời gian và trình tự các củng cố tích cực và tiêu cực, thiết kế những “kế hoạch củng cố” (chẳng hạn, chỉ củng cố phản ứng đầu tiên mà cơ thể tạo ra sau một khoảng thời gian nhất định, hoặc chỉ củng cố phản ứng đầu tiên sau một số lượng phản ứng nhất định). Từ các kết quả các thực nghiệm kiểu trên, B. F. Skinner đã phát biểu luật lĩnh hội của mình: cường độ của hành vi tạo tác tăng lên nếu hành vi được kèm theo kích thích củng cố. Mặc dù để hình thành phản ứng nhanh chóng nhấn đòn bẩy, đòi hỏi phải có thực hành, nhưng dù sao thông số then chốt vẫn là củng cố. Tự thân việc thực hành không đem lại cái gì cả, nó chỉ tạo điều kiện xuất hiện củng cố mang tính bổ xung. Luật lĩnh hội của B. F. Skinner khác với luận điểm của Thorndike và K. Hull. Nói chung B. F. Skinner không động chạm đến những hậu quả của củng cố như là đau-cảm giác dễ chịu hay hài lòng- không hài lòng như Thorndike đã làm. Ông cũng không cố gắng giải thích củng cố bằng những thuật ngữ giảm tác động của những động cơ như K. Hull. Hệ thống của Thorndike và K. Hull mang tính giải thích, còn hệ thống của B. F. Skinner là hoàn toàn mang tính mô tả. 1. 2. Sự củng cố B. F. Skinner dành trọn niềm tin và sức lực có thể có của mình cho sự củng cố hành vi. Trong mọi trường hợp, kể cả thực nghiệm trên động vật và con người, trong bộ máy khái niệm của Skinner, phản ứng tạo tác và củng cố hành vi bao giờ cũng là hai khái niệm chủ yếu . Không có củng cố trực tiếp thì không có hành vi tạo tác. Có củng cố là có sự xuất hiện phản ứng. Xác xuất xuất hiện phản ứng và tần số cường độ phản ứng hoàn toàn phụ thuộc vào củng cố và cách củng cố. Theo Skinner hậu quả của hành vi- những cái củng cố-là các luật kiểm soát rất mạnh mẽ. Vì vậy,ông cho rằng kiểm soát được củng cố thì kiểm soát được hành vi. Chẳng hạn, bằng cách kiểm soát củng cố, giáo viên có thể khuyến khích học sinh tuân thủ các quy tắc học đường về việc hút thuốc lá…Do tầm quan trọng đặc biệt mà

Skinner gán cho củng cố hành vi, nên chúng ta cần xét vấn đề này theo hai phương diện: vai trò quy định của củng cố đối với hành vi tạo tác của cá thể và nhóm: nguyên tắc và kỹ thuật củng cố. Chúng ta bắt đầu từ phương diện thứ hai: nguyên tắc và kỹ thuật củng cố. *Sự củng cố, phân loại và nguyên tắc Thực nghiệm của Thorndike cho rằng: bất kỳ hành vi nào tạo nên kết quả thỏa mãn sẽ được lặp lại nhiều lần với tần số cao hơn. Như vậy ở đây xuất hiện quan hệ kép của hành vi với kết quả của hành vi trước đó và hậu quả của nó. Nhưng theo Skinner kết quả quy định rất lớn sự lặp lại của hành vi đó. Loại và thời điểm của kết quả có thẻ củng cố hoặc suy yếu những hành vi tiếp theo. Sự củng cố là những kết quả làm cho hành vi xuất hiện với tần só và cường độ cao hơn. Vật củng cố là một kết quả nào đó mà củng cố hành vi tiếp sau nó. quá trình củng cố phác họa như sau. Hành vi - vật củng cố - hành vi được lặp lại hay được củng cố Trong hệ thống lý luận của ông thuật ngữ củng cố dùng với nghĩa sau: +Cái củng cố:là sự kiện kích thích mà nếu nó xuất hiện trong quan hệ nhát định với phản ứng thì có xu hướng duy trì tăng cường phản ứng, mối liên hệ kích thích –phản ứng, kích thích- kích thích. +Nguyên tắc củng cố:là việc tăng dần số phản ứng khi các kết quả nhất định theo sau nó, kết quả theo sau hành vi phải phụ thuộc vào hành vi là tăng dần số hành vi liên quan đến cái củng cố. +Bảo đảm nhận ra phần thưởng từ sự củng cố : những người không phải nhà tâm lý học cũng có thể sử dụng phần thưởng, như mua cho con que kem khi con cư xử ngoan ngoãn. Tuy nhiên đó chưa hẳn là sự củng cố các nhà tâm lý cho rằng củng cố có hiệu quả khi với hành vi đặt biệt. Nghĩa là khi sử dụng củng cố phải phù hợp với hành vi củng cố,làm sáng tỏ và tin cậy vào nó. Ví dụ : khi còn nhỏ ban thường bị bắt làm nhiều bài tâp nhưng ba mẹ thường hứa cho bạn những món quà như kem bánh . một minh họa được hưởng ứng nồng nhiệt, minh chứng cho việc Skinner không hài lòng với mô hình của Paplov. *Các loại củng cố B. F. Skinner cho rằng có 2 loại củng cố: Loại tích cực và loại tiêu cực . Củng cố có tính tích cực là sự củng cố hành vi bằng cách thể hiện một kích thích mong muốn sau khi có một hành vi. Còn củng cố tiêu cực là củng cố liên quan đến các sự kiện kích thích không mong muốn sau khi phản ứng đã được thực hiện. Củng cố tiêu cực cũng làm tăng theo hành vi mà chúng kéo theo. Có nghĩa là cả củng cố tiêu cực lẫn củng cố tích cực về phương diện chức năng đều tăng cường hành vi. Không nên lẫn lộn củng cố tiêu cực với trừng phạt làm giảm hành vi điều mà chúng ta xem xét ở phần sau. B. F. Skinner(1953) đã nhận thấy, một sự kiện là củng cố tiêu cực chỉ khi sự lấy chúng đi làm tăng việc thực hiện của phản ứng. Chẳng hạn, hãy xem những em thiếu niên đang chơi nhạc ầm ĩ trong phòng, tình huống này là sự kiện khó chịu đối với cha mẹ - những người không ưa sự ồn ào và ưa thích nhạc dân ca, để giảm sự ồn ào khi trẻ chơi nhạc cha mẹ mắng và dọa tắt nhạc. Nếu dọa ngừng chơi nhạc thì hành vi không chơi nhạc ầm ĩ được củng cố tiêu cực. Củng cố tích cực và tiêu cực : Chim bồ câu mổ trong cái chuồng của Skinner hay đứa trẻ phát triển nhân cách có thể có được và thay đổi cách ứng xử qua một trong hai loại củng cố được gọi là tác nhân củng cố tích cực và tác nhân củng cố tiêu cực. Hai loại này có thể phân biệt được bằng các tác động cụ thể mà chúng đã phản ứng lại một phản ứng và có hiệu lực có thể có khả năng gia tăng khi một tác nhân củng cố tích cực hiện diện theo sau phản ứng hay một khi tác nhân củng cố tiêu cực không tồn tại hoặc giảm bớt theo phản ứng. Thức ăn và nước cho chim bồ câu, nụ cười của ba mẹ đối với đứa con là một ví dụ về các tác nhân củng cố tích cự. Nếu thức ăn, nước hay nụ cười được áp dụng sau khi chim bồ câu mổ hay đứa trẻ lần đầu tiên phát âm rõ ràng tác động này có khả năng gia tăng phản ứng. Một ví dụ về tác nhân củng cố tiêu cực là điện giật thường được dùng trong các thí nghiệm điều kiện có tính đối kháng. “Cái chuồng Skinner” có thể được thiết kế theo một cách nào đó để chim bồ câu hay chuột nhận được dòng điện, cho tới khi được chim bồ câu mổ và then chắn được con chuột ấn xuống ngay lúc đó dòng điện chấm dứt. Tác động về điện có tác dụng như một tác nhân củng cố và phản ứng mổ phím hay ấn vào then chắn sẽ được huấn luyện khi sự thử nghiệm được lặp đi lặp lại. Tuy nhiên chính việc loại bỏ dòng điện phản ứng được củng cố.

Sự trừng phạt : Không giống như củng cố tiêu cực. Trong khi loại bỏ tác nhân củng cố tiêu cực làm tăng cường các phản ứng đào thoát hay tránh né, trừng phạt là một kết quả của một hành vi khó chịu được thiết lập để thay đổi hay ngăn chặn hành vi. Một cách dễ dàng làm sáng tỏ hơn sự khác biệt này là trong củng cố tiêu cực các kích thích đối kháng xuất hiện trước phản ứng trong khi ở sự trừng phạt, kích thích đối kháng lại đến sau phản ứng, do đó trong củng cố tiêu cực các hành vi theo sau thường giảm tần số. Có một ví dụ về sự trừng phạt chúng ta quan sát con chuột được để trong một khoang thực nghiệm mà không có kinh nghiệm huấn luyện cụ thể trước có khuynh hướng di chuyển quanh quẩn thám hiểm cái khoang hơn là ở yên một chỗ. Chúng ta có thể đưa dòng điện vào mỗi lần con chuột di chuyển và tắt điện nếu nó ở yên một chỗ. Dòng điện là sự trừng phạt hành vi chuyển động và sẽ dừng hẵn hoặc giảm bớt theo hành vi chuyển của con chuột. Những khác biệt giữa củng cố tích cực, tiêu cực và sự trừng phạt có tầm quan trọng liên quan đến sự phát triển hành vi con người vì thế ảnh hưởng đến nhân cách của người trưởng thành được cho là bộ sưu tập các hình thức, hành vi được phát triển thông qua một quá trình lịch sử. Củng cố này tạo ra các hành vi đa dạng về sự củng cố trong đời sống trước kia của người đó. Do đó, chúng ta có thể hỏi liệu phần thưởng, củng cố tiêu cực và sự trừng phạt trong lịch sử củng cố của một người có mang những hàm ý khác nhau về sự phát triển hành vi không. Skinner đã gợi ý là sự phát triển và sự thay đổi hành vi xã hội được hoàn thành tốt nhất qua việc sử dụng củng cố tích cực, củng cố này tạo ra các hành vi đã được huấn luyện tương đối không mang đến các hậu quả tiêu cực và thường kết hợp với các hành vi cảm xúc đáp ứng tích cực như khoái lạc và niềm vui. Mặt khác trừng phạt có nhiều vấn đề : + Các hành vi bị kìm nén do trừng phạt có thể được thay thế bởi các hành vi khác, vì trừng phạt không xóa bỏ được nguyên nhân của hành vi không mong muốn. + Việc loại bỏ sự trừng phạt thường dẫn tới sự tái diễn hành vi sự kìm nén. + Các hành vi đào thoát và tránh né do sự trừng phạt gây ra có thể chính chúng trở nên khó hiểu. + Trừng phạt có thể là một nhân tố trong việc phát triển các phản ứng cảm xúc có điều kiện như: Lo âu, căm ghét, các triệu chứng về thể chất và tâm thần ( như bệnh suyễn hay viêm loét ). + Trừng phạt khó thực hiện mà cũng không củng cố phản ứng. Ví dụ, một đứa trẻ thường bị phạt nhưng ít khi được thưởng có thể tìm được cách tốt nhất để đạt được sự quan tâm củng cố của cha mẹ và tham dự các hành vi không mong muốn. Trong phân tích này củng cố tiêu cực có khuynh hướng trung hòa. Về bản chất nó giống với sự trừng phạt trong tác động của nó khi các phản ứng được huấn luyện thông qua củng cố tiêu cực chỉ đơn giản dùng để ngăn chặn sự tái diễn của kích thích trừng phạt nhưng hiệu quả của các củng cố tiêu cực thì giống như kết quả của củng cố tích cực khi phản ứng được huấn luyện tiếp tục dùng để xóa bỏ kích thích đối kháng. Skinner (1971) đã lưu ý là trên một bình diện xã hội rộng lớn hơn có nhiều ví dụ về các hậu quả khác nhau của những loại củng cố khác nhau. Ví dụ về các hậu quả khác nhau của những loại củng cố khác nhau. Ví dụ, hành vi phạm tội được xử lý một cách điển hình sau khi nó xảy ra và sử dụng hình phạt bằng cách bỏ tù. Sự trừng phạt có thể ngăn chặn tạm thời hành vi của phạm nhân bằng cách gây ra sự sợ hãi nhưng xóa bỏ hình phạt bằng cách tha ra khỏi nhà giam làm giảm bớt sự sợ hãi và có thể làm cho hành vi phạm tội có cơ hội tái diễn. Skinner đã đề nghị là nếu hành vi phạm tội cần phải được xử lý, cách xử lý tốt hơn là phục hồi các củng cố tích cực. Tuy nhiên câu trả lời còn tốt hơn nữa là ngăn ngừa tội ác qua hệ thống củng cố tích cực của các hành vi không phạm tội, những hành vi xã hội hằng mong đợi đưa chúng ta tới gần hơn với ý tưởng về một xã hội không tưởng. Các kết quả của một số nghiên cứu đưa ra có thể cần phải xem xét lại quan điểm của Skinner về tính vô hiệu tương đối của sự trừng phạt. Ví dụ, Holz và Azrin (1963) đã so sánh các phương pháp truyền thống của việc giảm bớt tần số các phản ứng có hiệu lực. Họ đã kết luận là sự trừng phạt thực sự có thể có hiệu quả hơn các phương pháp khác mà họ đã sử dụng. Tổng quát Azrim và Holz (1966) đã kết luận là sự trừng phạt có thể rất có hiệu quả trong các tình huống đặc trưng, những tình huống mà trong đó kích thích trừng phạt mãnh liệt thường xuyên ngay lập tức và không thể tránh được, cần tránh việc kéo dài thời gian trừng phạt. Trong tình huống này và cộng thêm các điều kiện cụ thể họ tin rằng sự trừng

phạt có thể có hiệu quả bằng hoặc hơn các phương pháp giảm bớt sự phản ứng khác. Thế nhưng câu trả lời xác định về tính hiệu quả khác nhau của các loại tác nhân củng cố khác nhau vẫn chưa có thể tìm ra. *Các kiểu củng cố B. F . Skinner đã kiểm tra các củng cố và phân loại theo sức mạnh của chúng : Củng cố sơ cấp : Là những củng cố tác động đến hành vi mà không cần phải học tập: Thức ăn, nước uống, tình dục. Đó là những củng có tự nhiên. Củng cố thứ cấp : Là những củng cố thu được sức mạnh củng cố vì chúng gắn với những củng cố sơ cấp. Chẳng hạn, nếu một trong những con bồ câu của B. F. Skinner mổ vào đĩa, đèn xanh bật lên một giây sau những hạt lúa mì xuất hiện đèn xanh vẫn sáng và sau khi trắc nghiệm lại dần dần thu được tiềm năng củng cố của chính mình. Củng cố được khái quát hóa : Một dạng của củng cố thứ cấp là những củng cố đạt được sức mạnh vì chúng đi kèm với một số củng cố sơ cấp. Theo Skinner tiền minh họa cho loại củng cố này vì chúng dẫn đến thức ăn, rượu và những thứ tích cực, sau đó nó trở thành củng cố khái quát cho nhiều loại hành vi. *Các lịch trình củng cố Khi con người đang học một hành vi mới họ sẽ học nó nhanh hơn, nếu hành vi mới được củng cố, đó chính là củng cố liên tục. Khi hành vi mới đã được nắm vững họ sẽ duy trì tốt hành vi đó nếu thỉnh thoảng nó được củng cố, đó là củng cố gián đoạn. B. F. Skinner đã nhận ra hai loại lịch trình củng cố gián đoạn: Củng cố theo khoảng thời gian và theo tỉ lệ. Củng cố theo khoảng thời gian liên quan đến việc củng cố xuất hiện vào những khoảng thời gian định trước. Chẳng hạn, cô giáo có thể quyết định khen ngợi, không có củng cố nào được đưa ra cho đến khi năm phút tiếp theo trôi qua. Lịch trình củng cố theo tỉ lệ là củng cố xuất hiện sau một số lần phản ứng nhất định. Chẳng hạn, cô giáo có thể yêu cầu một học sinh làm bài toán trước khi có hoạt động trò chơi. Nếu tỉ lệ chậm thay đổi thì số lượng phản ứng có thể là kết quả của số lượng các củng cố rất chậm. Tầm quan trọng của củng cố và sự phát hiện các loại củng cố đã dẫn B. F. Skinner đến việc coi cái xảy ra đối với hành vi làm biến mất (vì lý do nào đó) một củng cố học sinh của mình vì từng phản ứng mong muốn mời chúng thể hiện. Chúng nhận được những phần thưởng mang tính định kỳ : Công nhân nhận được phiếu lĩnh lương theo tuần hoặc theo tháng, nhưng cả học sinh và công nhân đều tiếp tục hành động một cách thích hợp. Nguyên nhân là do hiệu quả của việc củng cố gián đoạn đặc biệt là khái niệm về cách thức củng cố. Những nghiên cứu về 4 loại cách thức đã có những phát hiện phù hợp : + Tỷ lệ cố định : Trong đó củng cố phụ thuộc vào một số lượng phản ứng nhất định, nếu cô giáo yêu cầu học sinh thực hiện 30 bài tập chẵng hạn trước khi chúng có thể làm điều gì đó thì có lẽ tốt hơn là giáo viên đặt ra cho các em một tỉ lệ cố định. + Tỷ lệ thay đổi : Trong đó lượng phản ứng cần thiết để củng cố sẽ thay đổi từ củng cố này sang củng cố khác. Những phản ứng theo yêu cầu có thể thay đổi và đối tượng sẽ không bao giờ biết phản ứng nào sẽ được củng cố. Chẵng hạn một số giáo viên không muốn chỉ nhìn thấy chúng trong những giai đoạn khác nhau của sự tiến bộ và cho điểm cái đã được làm. + Khoảng thời gian cố định : Trong đó phản ứng gây ra củng cố sau một khoảng thời gian cố định, trình tự sẽ như sau : Củng cố - 20s – củng cố; củng cố - 20s – củng cố. Cần lưu ý rằng những phản ứng thực hiện trong khoảng thời gian dưới 20s không được củng cố. Thỉnh thoảng giáo viên thất bại trong khuôn mẫu mà họ đòi lớp học làm bài và sau đó 10 hay 15 phút lại yêu cầu học sinh phải trả lời, học sinh biết điều đó bắt đầu làm việc ngay trước khi giáo viên yêu cầu chúng một cách thích hợp. + Khoảng thời gian thay đổi : Trong đó củng cố lại phụ thuộc vào thời gian và phản ứng nhưng thời gian giữa các củng cố thay đổi. Trong ví dụ nêu trên, thay vì 10 hay 15 phút trôi qua giáo viên yêu cầu phản ứng vào những thời điểm khác nhau (ngay tức khắc, muộn hơn hay giữa khoảng thời gian). Sự củng cố liên tục sẽ tạo ra trình độ cao của phản ứng. Củng cố dứt quãng mặc dù tạo ra phản ứng chậm hơn nhưng kết quả bền vững hơn đối với sự mất phản ứng. Cách thức theo tỉ lệ cần được sử dụng để phát động trình độ cao của phản ứng nhưng sự mệt mỏi có thể cản trở việc thực hiện tỷ lệ cố định là phổ biến trong giáo dục. Chúng ta củng cố học sinh của

mình vì những bài làm, bài tập và thi. Tuy nhiên sau khi học sinh phản ứng và nhận được củng cố thì hành vi giảm nhanh và hiệu quả học tập bị ảnh hưởng (B. F. Skinner 1933) cách thức theo khoảng thời gian tạo ra hành vi ổn định nhất. B. F. Skinner (1968) đã tổng kết ý nghĩa của những trình tự củng cố đối với giáo dục như sau : -Học sinh sẽ ít lệ thuộc vào việc củng cố thường xuyên và ngay lập tức, nếu chúng biết rằng chúng bị kiểm soát bởi củng cố đứt quãn. Nếu tỉ lệ các phản ứng được củng cố (trong cách thức tỉ lệ thay đổi) bị giảm đều đặn có thể đạt được trạng thái tại đó hành vi được duy trì một cách không xác định bởi số lượng củng cố ít đến mức ngạc nhiên. - Trong điều kiện có hiệu lực, củng cố thực nghiệm có thể được đưa ra một cách liên tục để chim bồ câu hay con chuột củng cố mỗi lần nó đưa ra phản ứng. Dù sự củng cố không liên tục nhưng vẫn có tình huống thông thường hơn, đó là sự củng cố không liên tục hay gián đoạn, trong đó cá nhân không bị củng cố khi mọi phản ứng xảy ra đúng. Feroter và Skinner (1957) nhận biết hai cơ sở quan trọng cho sự củng cố gián đoạn. Cơ sở thứ nhất là lịch tỉ lệ trong đó sự phát ra củng cố chỉ tùy thuộc vào số phản ứng đúng do đối tượng phát ra thay vì củng cố cho mọi phản ứng thứ ba hay thứ năm hay thứ mười hoặc theo một tỉ lệ khác nào đó tùy thuộc vào mục đích của thí nghiệm (hình 8-1) có hai loại lịch tỉ lệ : Loại thứ nhất là loại tỉ lệ cố định (FR) trong đó sự củng cố được phát ra một cách nhất định theo cùng tỉ lệ của các củng cố đời đời những phản ứng có hiệu lực. Ví dụ tỉ lệ là 1:3 có nghĩa là một củng cố được phát ra cho mỗi ba phản ứng do đối tượng đưa ra. Một lịch được ghi rõ là FR20 sẽ chỉ có nghĩa là một củng cố được đưa ra cho mỗi 20 phản ứng được phát ra. Lịch thứ hai là lịch tỉ lệ thay đổi (UR) trong đó thì nghiệm thay đổi một cách ngẫu nhiên tỉ lệ củng cố đối với các phản ứng. Mức độ thay đổi ngẫu nhiên xoay quanh một tỉ lệ trung bình nào đó và thường được ấn định giữa các giới hạn xác định nào đó. Người thí nghiệm có thể sử dụng tỉ lệ thay đổi là 120. Trong đó số trung bình của các phản ứng là 90, 100, 110, 120, 130, 140 hay 150. Các con vật trên tỉ lệ có khuynh hướng đáp ứng tỉ lệ rất cao những người theo Skinner gọi là “sự bùng phát”, có lẽ vì các tỉ lệ phản ứng cao hơn dẫn tới củng cố thường xuyên hơn. Một loại lịch quan trọng thứ hai là lịch khoảng thời gian, trong đó củng cố theo sau một phản ứng, phản ứng này đã xảy ra sau một khoảng thời gian cụ thể. Lịch khoảng thời gian cố định là (FI) là một loại hình mà trong đó khoảng thời gian đã được thiết kế nhất định từ thời gian thí nghiệm này đến một thời gian thí nghiệm kế tiếp. Do đó, chim bồ câu trên lịch “FI2” được củng cố cho phản ứng đầu tiên. Phản ứng này xảy ra cứ sau mỗi hai phút. Mô hình phản ứng FI tiêu biểu được mô tả như là một cái “vỏ sò”, muốn nói đến tỉ lệ phản ứng, tỷ lệ phản ứng điển hình này gia tăng đến mức cao nhất ngay trước khi phát ra sự củng cố, sau đó giảm tới 0 hay gần tới số 0 và dần dần tăng trở lại cho tới khi sự củng cố kế tiếp xuất hiện. Dĩ nhiên điều này hoàn toàn khác với phản ứng bùng phát tỉ lệ cao của các lịch tỉ lệ. Loại hình lịch khoảng thời gian thay đổi (VI) trong đó phạm vi chiều dài khoảng thời gian thay đổi ngẫu nhiên xoay quanh một chiều dài trung bình nào đó được sử dụng, có đặc điểm là ổn định hơn dạng “vỏ sò”. Lịch VI được sử dụng rộng rãi có lẽ vì sự huấn luyện trên lịch này có sức chịu đựng tiêu hủy cao độ. Dù những kết hợp cơ bản giữa khoảng thời gian và tỉ lệ - cố định và thay đổi - chỉ đưa ra bốn loại lịch quan trọng, các loại lịch có những sự kết hợp phức tạp hơn, gần gũi hơn với các tình huống trong cuộc sống thực tế có thể được sử dụng. Nhiều điều phức tạp trong việc lên lịch đó đã được xem xét qua thực nghiệm và các mô hình phản ứng tiêu biểu được quyết định. Một trong số lịch kĩ thuật phức tạp hơn được sử dụng rộng rãi nhất loại lịch củng cố khác nhau. Do đó, chim bồ câu biết rằng khi cái đĩa có đèn màu xanh, những củng cố sẽ được phát ra trên một tỉ lệ thay đổi, trong khi đèn đỏ biểu thị một lịch thời gian cố định. Do lịch củng cố trong con người có mức độ phức tạp lớn hơn, chúng ta có thể kiểm soát tốt và hiểu rõ cách ứng xử của con người bằng cách am hiểu lịch sử của sự củng cố mà con người đã trải qua có liên quan với các phản ứng riêng biệt. Do đó, đa số các phản ứng của người lớn sẽ không bị các tác nhân củng cố hiện tại tác động trực tiếp kiểm soát hiển nhiên mà sẽ phát triển qua lịch sử củng cố riêng biệt con người đã trải qua. *Sự trừng phạt

Điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta huỷ bỏ củng cố tích cực hoặc quy định một điều gì đó khó chịu. B. F. Skinner tin rằng hai điều kiện này sẽ tạo ra sự trừng phạt. Trừng phạt là sự thể hiện không thích thú hoặc sự di chuyển một sự kiện tích cực sau một phản úng và làm giảm tần số của phản ứng đó. Sự trừng phạt liên quan đến hai sự kiện: Một cái gì đó khó chịu xuất hiện sau phản ứng. Nó được gọi là kích thích khó chịu. Chẳng hạn, bà mẹ có thể quở trách đứa con đang la hét, giáo viên có thể khiển trách học sinh nói chuyện trong lớp. Một điều gì đó tích cực biến mất sau hành vi. Ví dụ, một cậu thiếu niên vi phạm luật giao thông có thể không được sử dụng xe máy trong những buổi sau. Sự khác nhau giữa sự trừng phạt và củng cố là trừng phạt thường có ý đồ làm giảm một kiểu hành vi nhất định, còn củng cố làm tăng cường hành vi. Mặc dầu trừng phạt là hợp lý trong một số tình huống tuy nhiên nhiều hình thức trừng phạt khác có thể gây tổn thương về tâm lý cho trẻ em. Bằng trừng phạt, chúng ta có thể buộc học sinh đọc sách , nghe giảng và thực hiện trắc nghiệm. Nhưng nếu các hoạt động đó là không thú vị thì chúng thường kèm theo các kết quả không mong muốn. Những học sinh chịu sự kiểm soát bởi trừng phạt thường tránh xa và lẩn trốn các phương pháp kích thích khó chịu: đến muộn, chúng trở thành người nói dối, phát sinh các chứng sợ nhà trường, giả vờ ốm. Đơn giản là chúng “tránh gặp mặt” giáo viên và mọi thứ mang tính chất giáo dục chúng. Các hệ thống dạy học, các tài liệu đa chức năng dễ dàng đưa ra câu trả lời trong trường hợp học sinh sẽ không học trừ khi có củng cố tích cực…học sinh ghi nhớ cái gì xảy ra trong lớp và chuyển việc học sang tình huống mới vì hậu quả hành vi của chúng trong lớp. Nếu chúng ta trình bày tài liệu một cách máy móc và không tạo cơ hội cho học sinh phản ứng nhằm mục đích mà chúng ta có thể củng cố các phản ứng này thì nhà trường trở nên không có ý nghĩa đối với học sinh. Dạy học sẽ trở nên dễ chịu, giáo viên càng thành công hơn và quan hệ giáo viên - học sinh tích cực hơn khi giáo viên bãi bỏ các kĩ thuật gây khó chịu và thiết kế các biện pháp trừng phạt thoả mãn từng cá nhân đối với học sinh. (B. F. Skinner). B. F. Skinner tin rằng sự củng cố tích cực để thay đổi hành vi là có hiệu quả hơn so với sự trùng phạt. Ông khẳng định quan điểm của mình bằng một khối lượng đáng kể những nghiên cứu thực nghiệm trên động vật và người. 1. 3. Skinner và công nghệ hành vi Quay trở lai bộ ba: kích thích - hành vi củng cố - hành vi lặp lại ( S-r-s-R) đây chính la chìa khóa để ông mở rộng lý luận của mình sang nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, phát triển nó trở thàng công nghệ hành vi. Tư tưởng công nghệ hành vi là một bước tiến bộ rất lớn trong tâm lý học, nó phản ánh xu thế tất yếu của sự phát triển khoa học. Trong nhiều lĩnh vực công nghệ đã trở thành lẽ sống thời đại. Vì vậy việc chuyển công nghệ vào trong tâm lý học là sự nhạy cảm của Skinner. Trước đòi hỏi của xã hội ông đã đề xuất chương trình kiểm sóat hành vi - công nghệ hành vi, trong đó ông cố gắng đưa những phát minh trong phòng thí nghiệm của mình vào cuộc sống của toàn xã hội. Năm 1948 ông đã xuất bản cuốn tiểu thuyết “Watson hai” cuốn sách đã nhận được cả lời khen và tiếng chê trong giới báo chí. Xã hội được mô tả trong tiểu thuyết của ông: thực chất mọi người đều giống như những chiếc máy, phản ánh đỉnh cao của khuynh hướng tư tưởng này là từ thời Ganile và Newton đến những nhà thực nghiệm Anh và sau đó đến Watson. *Thay đổi hành vi Thay đổi hành vi: sử dụng kích thích tích cực để kiểm soát hay thay đổi hành vi của cá nhân hay nhóm. Chương trình của Skinner đề xuất ra dựa vào củng cố tích cực chỉ ở bình diện lý thuyết, nhưng việc kiểm soát hay thay đổi hành vi của mọi người hoặc nhóm nhỏ trên thực tế lại được triển khai rộng rãi. Đây là một trong những phương pháp phổ biến nhất trong các bệnh viện tâm thần, trong nhà máy, tại các cơ sở giáo dục, cải tạo. Nó giống như phương pháp điều kiện hóa tạo tác thay đổi hành vi của con chuột hay con chim. B. F. skinner và những người theo ông đã tiến hành một khối lượng công việc đồ sộ trong vấn đề học tập. Chẳng hạn như về vai trò của sự trừng phạt trong lĩnh hội kỹ xảo, tác động

của những hệ thống củng cố khác nhau, mức độ tắt dần của điều kiện hóa tạo tác, sự hiện diện của củng cố thứ cấp… Mặc dầu ông đưa ra lý thuyết của mình khi mà lý thuyết của Paplov đang thịnh hành nhưng ông chứng minh được rằng, môi trường có ảnh hưởng lớn hơn đến việc học tập và hành vi. khi giải thích về điều kiện hóa tạo tác, ông giả thuyết môi trường củng cố hay giảm thiểu hành vi của chúng ta. Môi trường là chìa khóa để hiểu hành vi. Đối với ông hành vi là chuỗi nhân quả của ba mắt xích: +Thao tác được thực hiên trong cơ thể do thiếu thốn +Do điều kiện bên trong +Loại hành vi *Dạy học chương trình hóa Ngày 11/1/1953 do sự cố giờ học mà ông đã đưa ra máy dạy học. Như vậy đã xuất hiện khuynh hướng dạy học chương trình hóa, đáp ứng được yêu cầu của kỷ nguyên cách mạng khoa học kĩ thuật nhưng nó không gắn với bất cứ một lý thuyết tâm lý học thống nhất nào. Chúng ta nhận thấy rằng khái niệm của ông về hành vi tạo tác như kiểu điều kiện hóa đặc biệt bắt nguồn từ Thorndike. Những hiệu chỉnh cơ bản của ông đã chia nhỏ hành vi tạo tác thành các phần tử đơn giản nhất. Điều đó cho phép biến từng bộ phận của quá trình thành đối tượng điều khiển, từ đây có điều kiện lập ra chương trình cho cả quá trình, trong suốt thời gian mà nó diễn ra. Điều này là rất máy móc trong dạy học và không thể thực hiện được. Công nghệ dạy học của Skinner đã đưa ý tưởng đặc trưng cho toàn bộ thuyết hành vi về sự đồng nhất của các cơ chế hành vi vào lý thuyết và thực hành dạy học. Ông nghĩ rằng không có sự khác biệt giữa việc học tập của ngừơi và đông vật Tính chất sai lầm ở đây là hoạt động tâm lý cấp cao mà người ta đã coi là tài sản riêng của con người, đó chính là hành động ngôn ngữ *Hành vi ngôn ngữ Ông khẳng định rằng những âm thanh được cơ thể con người tạo ra trong quá trình nói cũng là một dạng hành vi mà đó chính là hành vi ngôn ngữ. Chúng là những phản ứng, có thể được củng cố bằng những âm thanh khác hay cử chỉ như chuột nhấn vào đòn bẩy để lấy được thức ăn. Đối với hành vi ngôn ngữ đòi hỏi phải có hai người tương tác với nhau - người nói và người nghe. Người nói phản ứng một cách nhất định, họ phát âm. Người nghe có thể điều chỉnh hành vi của người nói bằng sự củng cố hay trừng phạt tùy cái mà họ nói ra. Vì ngôn ngữ là hành vi. Nó chịu sự củng cố, dự báo và điều khiển giống như bất kỳ một hành vi nào khác. Ông đã tổng kết trong cuốn sách “Hành vi ngôn ngữ” 2. Động cơ hệ Động cơ hệ là động lực thúc đẩy hành vi con người. Một lý thuyết nhân cách trọn vẹn phải lý giải được tại sao con người lại cư xử như vậy mà không phải thế khác. Các luận điểm động cơ hệ hay nói một cách khác, các phương diện của quá trình vận hành ở cá thể, tập trung vào những đặc điểm động thay đổi của hành vi con người. Ví dụ về kiểu vấn đề liên quan đến bộ phận này của lý thuyết nhân cách: “tại sao con người lại đặt ra cho mình những mục đích này hay khác và nỗ lực đạt được chúng?”, “những động lực đặc thù nào buộc con người phải hành động và định hướng hành vi của họ?”. Xem xét học thuyết hành vi của Skinner chúng ta thấy học thuyết chủ yếu dựa trên nguyên lý vận hành có điều kiện. Các sinh thể luôn luôn ở trạng thái vận hành trong môi trường sống của mình, nói khác đi các sinh thể không ngừng vận động và di chuyển, thực hiện những việc cần phải làm. Trong quá trình vận hành có chủ ý này, những sinh thể tiếp cận có chú ý nhiều hơn với những kích thích đặc biệt có ảnh hưởng đến những vận hành ấy. Những kích thích này gọi là kích thích củng cố, đơn giản hơn đấy là một tác nhân củng cố. Kích thích củng cố có nhiệm vụ thúc đẩy số lần của một vận hành nhất định tăng lên trong tương lai. Nghĩa là một hành vi sẽ sảy ra nhiều hơn sau khi sinh thể tiếp cận với nguồn kích thích có lợi. Đây là quá trình vận hành phản xạ có điều kiện: một hành vi tạo ra một kết quả, và kết quả ấy sẽ thuyết phục sinh thể để tạo ra một xu hướng lập lại những hành vi ấy trong tương lai.

Thí nghiệm của Skinner được kể lại như sau: một con chuột được thả vào một cái hộp có một nút nhỏ đặt bên trong. Khi chuột ấn nút xuống, thức ăn sẽ rơi xuống. Ban đầu con chuột chạy khắp nơi trong hộp và vô tình một lần đạp phải cái nút nhỏ và phát hiện ra thức ăn rơi xuống. Lối vận hành, là hành vi xảy ra ngay sau khi có tác nhân củng cố, trong trường hợp này, tác nhân củng cố là thức ăn. Tất nhiên sau đó chuột liên tục đạp vào nút và hăm hở mang thức ăn rớt xuống xếp vào một góc hộp. Sau đó ông kết luận: một hành vi khi có sự xuất hiện của kích thích tác nhân củng cố - là thức ăn sẽ tạo một kết quả là khả năng xảy ra của hành vi ấy và sẽ diễn ra thường xuyên hơn trong tương lai. Khi chuột không được cho thức ăn mỗi khi đạp vào nút, sau vài lần cố gắng, chuột sẽ ngừng hành vi đạp vào nút đây là quá trình triệt tiêu (hay còn gọi là quá trình quên) hành vi đạp nút của chuột (extinction of the operant behavior). Ông kết luận rằng: một hành vi không có sự xuất hiện của tác nhân củng cố (là thức ăn) sẽ tạo ra kết quả là khả năng xảy ra ( probability) của hành vi ( đạp nút) sẽ giảm đi trong tương lai. Sau đó thức ăn lại được cung cấp, chuột đạp vào nút và nhận được thức ăn, hành vi của chuột chợt trở về thật nhanh, mau hơn lần đầu tiên chuột vô tình phát hiện ra thức ăn. Đơn giản là tác nhân củng cố (reinforcer) đã thiết lập một lịch trình củng cố trong quá khứ và đây là một quá trình gợi nhớ. 3. Sự phát triển nhân cách Nếu xem xét nhân cách như tập hợp các đặc điểm ổn định, tồn tại lâu dài thì việc hiểu các đặc điểm này phát triển như thế nào có một ý nghĩa đặc biệt. Các luận điểm phát triển tập trung vào việc xem xét xem các phương diện động cơ vận hành của nhân cách thay đổi như thế nào từ tuổi ấy thơ đến trưởng thành và đến tuổi già. Lý giải những thay đổi này là vấn đề chìa khóa trong một lý thuyết nhân cách. Trong thuyết hành vi của Skinner thì nhân cách được hình thành và phát triển do các hành vi của cá nhân được củng cố và tạo tác. Các hành vi đều được cấu tạo do có môi trường bên ngoài trực tiếp tác động vào cơ thể. Toàn bộ hành vi theo Skinner chủ yếu được tạo nên bởi các phản ứng tạo tác là cử động bao giờ cũng nhằm tới các củng cố tích cực hay tiêu cực. Skiner viết:Con người là cái do con người làm ra, là sản phẩm của nền văn minh do con người sáng chế. Nó xuất hiện 2 quá trình tiến hóa hoàn toàn khác nhau. Tiến hóa sinh vật có trách nhiệm đối với loài người và tiến hóa văn hóa do loài người tiến hành”. Như vậy nhân cách được hình thành do sự tác động bên ngoài, do các kích thích từ môi trường xã hội tạo nên. Tuy nhiên ông cũng cho rằng hành vi con người còn nằm trong yếu tố di truyền. Ông ít chú trọng mặt ý thức, cái bên trong cơ thể hình thành nên nhân cách mà xem môi trường xã hội quy định về hoàn cảnh xã hội. Hoàn cảnh xã hội được hiểu là các mớ ngẫu nhiên được củng cố mà người này nhận được ở người kia và nhân cách hình thành từ đó 4. Tâm bệnh lý Các lý thuyết nhâm cách đều phải đối diện với câu hỏi: lý giải nguyên nhân tại sao một số người không thể thích nghi được với những yêu cầu của xã hội và không thể hành xử có hiệu quả trong xã hội? Các nhà nhân cách học luôn quan tâm đến việc tại sao một số người lại thể hiện những hành vi bệnh lý hoặc không tương thích trong cuộc sống hàng ngày. Khi xem xét lý thuyết hành vi của Skinner thấy: một con người phát triển bình thường là nhờ vào những ứng xử thích nghi, được tập nhiễm nhờ vào củng cố và bắt trước bằng phương pháp học tập theo mô hình S-r-s-R. Nếu kích thích không được củng cố và đáp ứng sẽ dẫn những ứng xử rối nhiễu. Triệu chứng là không có tổn thương thực thể. Như vậy nguyên nhân dẫn đến tâm bệnh là do con người không được thỏa mãn và đáp ứng những kích thích củng cố. 5. Thay đổi nhân cách dưới tác động liệu pháp tâm lý Các nhà tâm lý học hành vi đưa ra các nguyên nhân các chứng bệnh tâm lý đồng thời cũng đề xuất những con đường điều chỉnh hành vi lệch chuẩn. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với các luận cứ lý thuyết về nhân cách. Đó là vấn đề làm thế nào để giúp mọi người nâng cao được khả năng của mình, giảm thiểu những biểu hiện của hành vi không thích ứng và có được những hành vi tích cực. Theo thuyết hành vi, học tập là quá trình và kết quả lĩnh hội kinh nghiệm cá nhân, tri thức,

kỹ năng, kỹ xảo. Học tập được xem như là biểu hiện của phương pháp hành vi nhất định trong các điều kiện tác động của các kích thích cụ thể. Nói cách khác, học tập là sự thay đổi một cách có hệ thống hành vi khi lặp lại tình huống giống nhau. Học tập thể hiện như là nguyên tắc phương pháp luận cơ bản và nhiệm vụ chính của tâm lý học hành vi đó là nhân tố quan trọng của tác động điều trị trong các hệ thống tâm lý tri liệu, đặc biệt là trị liệu nhóm. Tâm lý trị liệu hành vi thực chất là sử dụng trong lâm sàng các lý thuyết học tập, được hình thành trong hành vi. Skinner cho rằng hành vi củng cố là yếu tố điều chỉnh sự lệch chuẩn hành vi con người. Và ông cũng đề cao vai trò của giáo dục là một liệu pháp tâm lý