24 0 661KB
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx MỤC LỤC Trang
LỜI NÓI ĐẦU Internet băng rộng với công nghệ ADSL (sử dụng cáp đồng) đã tạo nên bước tiến bùng nổ trong việc truyền tải dữ liệu. Với khả năng kết nối,truyền dữ liệu gấp hàng chục đến hàng trăm lần modem quay số, ADSL đã biến Internet trở nên gần gũi và phổ biến với bất kỳ quốc gia nào. Tuy nhiên, công nghệ ADSL đang đứng trước nguy cơ phải nhường vị trí thống trị bấy lâu nay cho một loại công nghệ truyền dẫn mới hơn, đó là công nghệ truyền dẫn cáp quang, thông qua kiến trúc mạng sử dụng cáp quang để kết nối viễn thông có tên FTTx (Fiber To The x). Mạng FTTx (Fiber-to-the-x) hiện đang được xem là sẽ đóng một vai trò quan trọng trong 2-3 năm tới do tiềm năng cung cấp băng thông cho khách hàng lớn hơn so với cáp đồng, đáp ứng nhu cầu truyền thoại, dữ liệu và video trên nền IP. Các công nghệ thường được sử dụng để tạo dựng các mạng FTTx, bao gồm cả các mạng quang thụ động, các đường dây thuê bao số (DSL), và các công nghệ nén video.
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
1
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx
THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
ADSL AON APON BPON C0 CPE DSLAM FTTB FTTC FTTH FTTN GPON OLT ONT ONU PON STB TDM WDM Nhóm 1 - Lớp D06VT2
Asymmetric Digital Subscriber Line Active Optical Network ATM Passive Optical Network Broadband PON Central Office Customer Premises Equipment Digital Subscriber Line Access Multiplexer Fiber To The Building Fiber To The Curb Fiber To The Home Fiber To The Node Gigabit PON Optical Line Terminal Optical Network Terminal Optical Network Unit Passive Optical Network Set Top Box Time-Division Multiplexing Wavelength Division Multiplexing 2
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx
I. TỔNG QUAN VỀ FTTx 1.
Giới thiệu chung
FTTx (Fiber to the x) là một thuật ngữ chung cho bất kỳ kiến trúc mạng băng rộng sử dụng cáp quang thay thế tất cả hay một phần cáp kim loại thông thường dùng trong mạch vòng ở chặng cuối của mạng viễn thông.Thuật ngữ chung này bắt nguồn như một sự tổng quát hóa một vài mô hình mạng triển khai sợi quang (FTTN, FTTC, FTTB, FTTH, FTTP…),tất cả bắt đầu bằng FTT nhưng kết thúc bởi các ký tự khác nhau, được thay thế bằng x mang tính chất tổng quát hóa. Ngành công nghiệp viễn thông đã phân biệt một vài mô hình riêng biệt, rõ ràng. Trong đó được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay là: Fiber To The Home (FTTH): sợi quang được dẫn tới ranh giới không gian sống, như một hộp cáp quang được đặt trên tường bên ngoài của một ngôi nhà.
Fiber To The Building (FTTB): sợi quang được dẫn tới chân của một tòa nhà cao tầng, từ đó thông
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
3
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx qua phương tiện chuyển đổi (quang-điện) đấu nối tới từng người sử dụng riêng biệt. Fiber To The Curb (FTTC): sợi quang được dẫn tới tủ cáp đặt trên lề đường cách khu vực khách hàng gần hơn 300m,từ đó sử dụng cáp đồng đấu nối tới người dùng.
Fiber To The Node (FTTN): sợi quang được dẫn tới node, nó cũng tương tự như FTTC, nhưng khoảng cách từ node tới khu vực khách hàng thì xa hơn, có thể tới vài kilomet.
Hình 1: Các mô hình mạng FTTx
Nhu cầu sử dụng hạ tầng cáp quang tới hộ gia đình FTTH (Fiber to the Home) đã xuất hiện từ những năm 1980 khi mà các công ty điện thoại thấy lợi ích mang lại trong việc cung cấp các dịch vụ băng rộng tới các thuê bao. Những tiến bộ nhanh chóng trong lĩnh vực thu phát và cáp sợi quang đã mở ra một tiềm năng lớn trong việc phát triển hạ tầng FTTH. FTTH được xem như một giải pháp hoàn hảo trong việc thay thế mạng cáp đồng hiện tại nhằm cung cấp các dịch vụ “triple play” (bao gồm thoại, hình ảnh, truy cập dữ liệu tốc độ cao) và các ứng dụng đòi hỏi nhiều băng thông. Nhóm 1 - Lớp D06VT2
4
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx Hiện nay, ở Việt Nam có một số nhà cung cấp dịch vụ FTTH sau :
Tháng 8/2006 FPT Telecom chính thức trở thành đơn vị đầu tiên cung cấp loại hình dịch vụ tiên tiến này.
Ngày 1/5/2009, VNPT cung cấp dịch vụ Internet FTTH trên cáp quang với tốc độ cao đến 20Mbps/20Mbps.
Ngày 15/05/2009, Viettel chính thức triển khai cung cấp dịch vụ truy nhập Internet FTTH (Fiber To The Home) – Cáp quang siêu tốc độ nhằm phục vụ khách hàng doanh nghiệp mà dịch vụ truy cập Internet hiện tại (ADSL và Leased Line) chưa đáp ứng được về tốc độ và chi phí sử dụng.
Hình 2: Mạng FTTx khi triển khai
2.
So sánh mạng ADSL và FTTx
2.1. Cáp quang và cáp đồng Trên thực tế, để khắc phục nhược điểm trong truyền dẫn thông tin của cáp đồng, đã từ lâu người ta đã cho ra đời cáp quang cùng với những tính năng ưu việt hơn. Không giống như cáp đồng truyền tín hiệu bằng điện, cáp quang dùng ánh sáng để truyền tín hiệu đi. Chính vì sự khác biệt đó mà cáp quang ít bị Nhóm 1 - Lớp D06VT2
5
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx nhiễu, tốc độ cao và có khả năng truyền xa hơn. Tuy vậy phải đến giai đoạn hiện nay thì cáp quang mới được phát triển bùng nổ, nhất là trong lĩnh vực kết nối liên lục địa, kết nối xuyên quốc gia. Và việc sử dụng công nghệ truyền dẫn hiện đại này cũng đang bắt đầu thay thế dần mạng cáp đồng ADSL phục vụ trực tiếp đến người sử dụng. Cáp quang dài, mỏng với thành phần của thủy tinh trong suốt bằng đường kính của một sợi tóc. Chúng được sắp xếp trong bó được gọi là cáp quang và được sử dụng để truyền tín hiệu trong khoảng cách rất xa. Cáp quang có cấu tạo gồm dây dẫn trung tâm là sợi thủy tinh hoặc plastic đã được tinh chế nhằm cho phép truyền đi tối đa các tín hiệu ánh sáng. Sợi quang được tráng một lớp lót nhằm phản chiếu tốt các tín hiệu. Cáp quang gồm các phần sau:
Core : Trung tâm phản chiếu của sợi quang nơi ánh sáng đi
Cladding : Vật chất quang bên ngoài bao bọc lõi mà phản xạ ánh sáng trở lại vào lõi.
Buffer coating : Lớp phủ dẻo bên ngoài bảo vệ sợi không bị hỏng và ẩm ướt
Jacket: Hàng trăm hay hàng ngàn sợi quang được đặt trong bó gọi là cáp quang. Những bó này được bảo vệ bởi lớp phủ bên ngoài của cáp được gọi là jacket. Khi phát tín hiệu thì một điốt phát sáng (LED) hoặc laser sẽ truyền dữ liệu xung ánh sáng vào cáp quang. Còn khi nhận thì sẽ sử dụng cảm ứng quang chuyển xung ánh sáng ngược thành dữ liệu. So với cáp đồng, cáp quang chỉ truyền sóng ánh sáng (không truyền tín hiệu điện) nên nhanh, không bị nhiễu và bị nghe trộm (tín hiệu ánh sáng từ sợi quang không bị nhiễu với những sợi khác trong cùng cáp, điều này làm cho chất lượng tín hiệu tốt hơn). Độ suy dần thấp hơn các loại cáp đồng (tín hiệu bị mất trong cáp quang ít hơn trong cáp đồng) nên có thể tải các tín hiệu đi xa hàng ngàn km. Dung lượng tải của cáp quang cao hơn, vì sợi quang mỏng hơn cáp đồng, nhiều sợi quang có thể được bó vào với đường kính đã cho hơn cáp đồng. Điều này cho phép nhiều kênh đi qua một sợi cáp. Cáp quang cũng sử dụng điện nguồn ít hơn, bởi vì tín hiệu trong cáp quang giảm ít, máy phát có thể sử dụng nguồn thấp hơn thay vì máy phát với điện thế cao được dùng trong cáp đồng.
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
6
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx Còn tín hiệu số thì cáp quang rất lý tưởng thích hợp để tải thông tin dạng số mà đặc biệt hữu dụng trong mạng máy tính. Cáp quang cũng không cháy, vì không có điện xuyên qua cáp quang, do đó không có nguy cơ hỏa hạn xảy ra. Tuy vậy, cáp quang và các thiết bị đi kèm lại rất đắt tiền so với các loại cáp đồng. 2.2. Một số tiêu chí về chất lượng dịch vụ giữa ADSL và FTTx
Hiện nay, công nghệ FTTH (Fiber-To-The-Home là mạng viễn thông băng thông rộng bằng cáp quang được nối đến tận nhà để cung cấp các dịch vụ tốc độ cao như điện thoại, Internet tốc độ cao và TV) đang được triển khai khá mạnh mẽ trên thế giới. Khi dùng công nghệ FTTH, đường truyền dẫn hoàn toàn bằng cáp quang tới tận phòng máy của người sử dụng. Chất lượng truyền dẫn tín hiệu bền bỉ ổn định không bị suy hao tín hiệu bởi nhiễu điện từ, thời tiết hay chiều dài cáp như đối với ADSL. Độ bảo mật rất cao. Với ADSL, khả năng bảo mật thấp hơn vì có thể bị đánh cắp tín hiệu trên đường dây, còn với FTTH thì hầu như không thể bị đánh cắp tín hiệu trên đường dây. Với công nghệ FTTH, nhà cung cấp dịch vụ có thể cung cấp tốc độ download lên đến 10 Gigabit/giây, nhanh gấp 200 lần so với ADSL 2+ (hiện chỉ có thể đáp ứng 20 Megabit/giây). Tốc độ truyền dẫn với ADSL là không cân bằng, có tốc độ tải lên luôn nhỏ hơn tốc độ tải xuống (Bất đối xứng, Download > Upload) và tối đa 20 Mbps. Còn FTTH cho phép cân bằng, tốc độ tải lên và tải xuống như nhau (Đối xứng, Download = Upload) và cho phép tối đa là 10 Gbps, có thể phục vụ cùng một lúc cho hàng trăm máy tính. FTTH đặc biệt hiệu quả với các dịch vụ: Hosting Server riêng, VPN (mạng riêng ảo), Truyền dữ liệu, Game Online, IPTV (truyền hình tương tác), VoD (xem phim theo yêu cầu), Video Conferrence (hội nghị truyền hình), IP Camera…với ưu thế băng thông truyền tải dữ liệu cao, có thể nâng cấp lên băng thông lên tới 1Gbps, An toàn dữ liệu, Độ ổn định cao, không bị ảnh hưởng bởi nhiễu điện, từ trường... Bảng 1: So sánh ADSL và FTTx dựa trên một số tiêu chí Yếu tố so sánh
ADSL
Môi trường truyền tín Cáp đồng hiệu Độ ổn định
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
FTTx Cáp quang
Dễ bị suy hao do tín hiệu Không bị ảnh hưởng điện từ, thời tiết, chiều dài cáp…
7
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx Bảo mật
Độ bảo mật thấp, dễ bị Độ bảo mật cao, không đánh cắp tín hiệu đường thể đánh cắp tín hiệu trên dây đường truyền
Tốc độ truyền dẫn Bất đối xứng : (Upload và download ) Download > Upload
Cho phép cân bằng : Upload = download
Tốc độ tối đa là 20 Mbps Tốc độ cho phép là 10Gbps Chiều dài cáp
Tối đa là 2,5 km để đạt Tối đa 10 km được sự ổn định
Khả năng đáp ứng các Không phù hợp vì tốc độ Rất phù hợp vì tốc độ rất dịch vụ băng rộng: thấp cao và có thể tùy biến Hosting server riêng, tốc độ. VPN, hội nghị truyền hình
II. KỸ THUẬT TRIỂN KHAI MẠNG FTTx Các hướng chính triển khai FTTx (cụ thể với FTTH ) :
Home Run (Point-to-Point).
AON - Active optical network: Mạng quang chủ động hay mạng quang tích cực.
PON - Passive optical network: Mạng quang thụ động .
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
8
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx
Hình 3: Các hướng triển khai mạng FTTx 1. Home run Phương pháp này sử dụng kết nối điểm tới điểm ( point-to-point ),nghĩa là dây quang sẽ được đưa trực tiếp từ CO ( Central Office ) đến tận nhà của người sử dụng. Đây là phương pháp đơn giản nhất nhưng hiện nay ít được sử dụng phổ biến bởi hiệu quả thương mại thấp, tốn kém.
Hình 4: Kiểu triển khai Home run
2. Mạng quang chủ động (AON)
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
9
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx
Hình 5: Mạng quang chủ động
Để phân phối tín hiệu, mạch quang chủ động sử dụng các thiết bị sử dụng điện để phân tích dữ liệu như một chuyển mạch, router hoặc multiplexer. Dữ liệu từ phía nhà cung cấp của khách hàng nào sẽ chỉ được chuyển đến khách hàng đó. Dữ liệu từ phía khách hàng sẽ tránh xung đột khi truyền trên đường vật lý chung bằng việc sử dụng các bộ đệm của các thiết bị chủ động. Từ năm 2007, hầu hết các các hệ thống mạng quang chủ động được gọi là Ethernet chủ động. Ethernet chủ động sử dụng các chuyển mạch ethernet quang để phân phối tín hiệu, do đó sẽ kết nối các căn hộ khách hàng với nhà cung cấp thành một hệ thống mạng Ethernet khổng lồ giống như một mạng máy tính ethernet thông thường ngoại trừ mục đích của chúng là kết nối các căn hộ và các tòa nhà với nhà cung cấp dịch vụ. Mỗi tủ chuyển mạch có thể quản lý tới 1000 khách hàng, thông thường là 400-500 khách hàng. Các thiết bị chuyển mạch này thực hiện chuyển mạch và định tuyến dựa vào lớp 2 và lớp 3. Nhóm 1 - Lớp D06VT2
10
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx Active Ethernet: Thuật ngữ này đuợc hiểu như thực hiện một kết nối điểm điểm giữa nguời sử dụng và Ethernet Switch của nhà cung cấp dịch vụ, các Ethernet Switches có thể đuợc đặt tại nhà cung cấp dịch vụ hoặc đôi khi đuợc đặt như một tủ cung cấp mạng gần phía khách hàng. Thiết bị chuyển đổi (Media Converter) được đặt ở phía khách hàng có nhiệm vụ chuyển quang điện (quang đơn mode thành CAT 5 có thể sử dụng 100 Base – T hoặc 1000 Base-T (GigabitEthernet). Một nhược điểm rất lớn của mạng quang chủ động chính là ở thiết bị chuyển mạch. Với công nghệ hiện tại, thiết bị chuyển mạch bắt buộc phải chuyển tín hiệu quang thành tín hiệu điện để phân tích thông tin rồi tiếp tục chuyển ngược lại để truyền đi. Điều này sẽ làm giảm tốc độ truyền dẫn tối đa có thể trong hệ thống FTTX. Ngoài ra do đây là những chuyển mạch có tốc độ cao nên các thiết bị này rất đắt, không phù hợp với việc triển khai đại trà cho mạng truy cập. 3. Mạng quang bị động (PON) 3.1. PON là gì
Hình 6: Mạng quang thụ động PON là kiểu mạng Điểm – Đa điểm (P2M). Mỗi khách hàng được kết nối tới mạng quang thông qua một bộ chia quang thụ động, vì vậy không có các Nhóm 1 - Lớp D06VT2
11
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx thiết bị điện chủ động trong mạng phân chia và băng thông được chia sẻ từ nhánh (feeder) đến người dùng (drop). Tín hiệu download được broadcast tới các hộ gia đình, tín hiệu này được mã hóa để tránh việc xem trộm. Tín hiệu upload được kết hợp bằng việc sử dụng giao thức đa truy nhập phân chia theo thời gian (TDMA). OLT sẽ điều khiển các ONU sử dụng các khe thời gian cho việc truyền dữ liệu đường uplink.
Hình 7: Cấu trúc mạng quang thụ động
3.2. Thành phần mạng PON
Thiết bị đường truyền quang (OLT: Optical Line Terminal): OLT cung cấp giao tiếp giữa hệ thống mạng truy cập quang thụ động EPON và mạng quang đường trục của các nhà cung cấp dịch vụ thoại, dữ liệu và video. OLT cũng kết nối đến mạng lõi của nhà cung cấp dịch vụ thông qua hệ thống quản lý EMS (Element Management System). Thiết bị kết cuối mạng quang (ONU: Optical Network Unit): ONU cung cấp giao tiếp giữa mạng thoại, video và dữ liệu người dùng với mạng PON. Chức năng cơ bản của ONU là nhận dữ liệu ở dạng quang và chuyển sang dạng phù hợp với người dùng như Ethernet, POST, T1... Hệ thống quản lý (EMS: Element Management System): EMS quản lý các phần tử khác nhau của mạng PON và cung cấp giao diện đến mạng lõi của các
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
12
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx nhà cung cấp dịch vụ. EMS có chức năng quản lý về cấu hình, đặc tính và bảo mật. Trong công nghệ PON, thiết bị OLT (Optical Line Terminal, thiết bị kết cuối kênh quang) được đặt ở phía nhà cung cấp dịch vụ, còn các thiết bị ONT (Optical Network Terminal, thiết bị kết cuối mạng quang) được đặt phía nguời sử dụng. Thiết bị OLT cung cấp nhiều kênh quang, mỗi kênh quang đuợc truyền trên một tuyến cáp quang trên đó có bộ lọc (splitter). Nhiệm vụ của bộ lọc là thu và nhận các tín hiệu quang đuợc nhận và phát bởi OLT. Các đôi dây quang truyền từ OLT sẽ trải dài và kết nỗi tới mỗi ONT. Các bước sóng truyền 1490 nanometers (buớc chọn lựa, 1550 nm) đuợc dùng cho băng thông chiều xuống từ OLT, trong đó các bước sóng 1310 nm sẽ đuợc truyền theo huớng lên bởi mỗi thiết bị ONT. Hệ thống cung cấp địa chỉ, cung cấp băng thông một cách tự động tự động cũng như việc mã hóa được sử dung để truy trì và phân tách lưu lựợng giữa OLT và ONT. 3.4. Đặc tính Đặc tính nổi bật của công nghệ PON có thể được hiểu ngắn gọn bởi hai ý sau: Khả năng tận dung phuơng pháp WDM, ghép kênh phân chia theo dải tần và cung cấp băng thông tự động để giảm thiểu số lượng cáp quang cần thiết để kết nối giữa OLT và bộ lọc.
Lợi điểm loại bỏ hoàn toàn sự cần thiết của nguồn ngoài.Ưu điểm của PON là nó sử dụng các thiết bị splitter không cần cấp nguồn, có giá thành rẻ và có thể đặt ở bất kì đâu, không phụ thuộc và các điều kiện môi trường, không cần phải cung cấp năng lượng cho các thiết bị giữa phòng máy trung tâm và phía người dùng. Ngoài ra, ưu điểm này còn giúp các nhà khai thác giảm được chi phí bảo dưỡng, vận hành. Kiến trúc PON cho phép giảm chi phí cáp sợi quang và giảm chi phí cho thiết bị tại CO do nó cho phép nhiều người dùng (thường là 32) chia sẻ chung một sợi quang.
3.5. Các chuẩn mạng quang bị động PON ITU-T G.983
APON (ATM Passive Optical Network): Đây là chuẩn mạng PON đầu tiên. Nó chủ yếu được sử dụng cho các ứng dụng kinh doanh và dựa trên ATM.
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
13
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx BPON (Broadband PON): là một chuẩn dựa trên APON. Nó hỗ trợ thêm công nghệ WDM, băng thông giành cho đường uplink là động và cao hơn. Nó cũng cung cấp một giao diện quản lý chuẩn OMCI giữa OLT và ONU/ONT cho phép nhiều nhà cung cấp dịch vụ cùng hoạt động.
ITU-T G.984
GPON (Gigabit PON): là sự nâng cấp của chuẩn BPON. Nó hỗ trợ tốc độ cao hơn, bảo mật được tăng cường và sự đa dạng trong việc lựa chọn giao thức lớp 2 :ATM, GEM, Ethernet. IEEE 802.3ah
EPON (Ethernet PON) là một chuẩn của IEEE/EFM cho việc sử dụng Ethernet trong việc truyền dữ liệu. 3.5. WDM PON
Hình 9: Cấu trúc TDMA-PON và WDM-PON
Ở hướng xuống (từ OLT đến ONU), mạng PON là mạng điểm-đa điểm. OLT chiếm toàn bộ băng thông hướng xuống. Trong hướng lên, mạng PON là mạng đa điểm-điểm: nhiều ONU truyền tất cả dữ liệu của nó đến một OLT. Đặc tính hướng của các bộ tách ghép thụ động là việc truyền thông của một ONU sẽ không được nhận biết bởi các ONU khác. Tuy nhiên các luồng dữ liệu từ các ONU khác nhau được truyền cùng một lúc cũng có thể bị xung đột. Vì vậy trong hướng lên, PON sẽ sử dụng một vài cơ chế riêng biệt trong kênh để tránh xung đột dữ liệu và chia sẽ công bằng tài nguyên và dung lượng trung kế. Một phương pháp chia sẽ kênh ở hướng lên của ONU là sử dụng ghép kênh phân chia theo bước sóng WDM, với phương pháp này thì mỗi ONU sẽ hoạt động ở một bước sóng khác nhau. Giải pháp WDM yêu cầu một bộ thu điều khiển được hoặc là một mảng bộ thu ở OLT để nhận các kênh khác nhau. Thậm chí nhiều vấn đề khó khăn cho các nhà khai thác mạng là kiểm kê từng bước sóng của ONU: thay vì chỉ có một loại ONU, thì có nhiều loại ONU dựa Nhóm 1 - Lớp D06VT2
14
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx trên các bước sóng Laser của nó. Mỗi ONU sẽ sử dụng một laser hẹp và độ rộng phổ điều khiển được cho nên rất đắt tiền. Mặc khác, nếu một bước sóng bị sai lệch sẽ gây ra nhiễu cho các ONU khác trong mạng PON. Việc sử dụng Laser điều khiển được có thể khắc phục được vấn đề này nhưng quá đắt cho công nghệ hiện tại. Với những khó khăn như vậy thì WDM không phải là giải pháp tốt cho môi trường hiện nay. Một số giải pháp khác dựa trên WDM cũng được đề xuất nhưng giá cả khá cao. Do vậy, TDM PON đã ra đời. Trong TDM PON, việc truyền đồng thời từ vài ONU sẽ gây ra xung đột khi đến bộ kết hợp. Để ngăn chặn xung đột dữ liệu, mỗi ONU phải truyền trong cửa sổ (khe thời gian) truyền của nó. Một thuận lợi lớn của TDM PON là tất cả các ONU có thể hoạt động cùng một bước sóng, OLT cũng chỉ cần một bộ thu đơn. Bộ thu phát ONU hoạt động ở tốc độ đường truyền, thậm chí băng thông có thể dùng của ONU thấp hơn. Tuy nhiên, đặc tính này cũng cho phép TDM PON đạt hiệu quả thay đổi băng thông được dùng cho từng ONU bằng cách thay đổi kích cở khe thời gian được ấn định hoặc thậm chí sử dụng ghép kênh thống kê để tận dụng hết băng thông được dùng của mạng PON. Trong mạng truy cập thuê bao, hầu hết các luồng lưu lượng lên và xuống không phải là Peer to Peer (user to user). Vì vậy điều này dường như là hợp lý để tách kênh lên và xuống. Một phương pháp tách kênh đơn giản có thể dựa trên ghép kênh phân chia không gian(SDM) mà nó tách PON được cung cấp theo hướng truyền lên xuống. Để tiết kiệm cho sợi quang và giảm chi phí sửa chữa và bảo quảng, một sợi quang có thể được sử dụng cho truyền theo hai hướng. Trong trường hợp này, hai bước sóng được dùng là: hướng lên λ 1=1310nm, hướng xuống λ 2=1550nm. Dung lượng kênh ở mỗi bước sóng có thể phân phối linh động giữa các ONU. Ghép kênh phân chia theo thời gian là phương pháp được ưu tiên hiện nay cho việc chia sẽ kênh quang trong mạng truy cập khi mà nó cho phép một bước sóng đơn ở hướng lên và bộ thu pháp đơn ở OLT đã làm cho giải pháp này có ưu thế hơn về chi phí đầu tư. 4. So sánh giữa 2 kỹ thuật AON và PON :
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
15
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx
Hình 10: So sánh AON và PON
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
16
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx
Hình 11: GPON và Active Ethernet
Các yếu tố được đem ra so sánh:
Tổng dung lựơng, băng thông một thuê bao có thể tận hưởng
Các dịch vụ hai công nghệ cung cấp cho ngừơi dùng đầu cuối.
Như đã đề cập phía trên, GPON dùng hai buớc sóng khác nhau, chiều xuống bước sóng 1490 nm, và chiều lên 1310 nm (coi OLT làm mốc). Và buớc sóng 1500 nm là buớc sóng chọn lựa để sử dụng cho các thông tin quảng bá và tín hiệu video số. Tại thời điểm hiện tại, tốc độ chiều xuống của GPON khoảng 2.5 Gbps, và chiều lên là 1.25 Gbps . Nếu 1 OLT phục vụ duy nhất một thuê bao thì thuê bao đó có thể đuợc tận hửong toàn bộ băng thông như trên, tuy nhiên thông thường trong các mạng đã triển khai tại một số nuớc trên thế giới, các kỹ sư thường thiết kế tốc độ cho một thuê bao sử dụng PON vào khoảng 100 Mbps cho chiều xuống và 40 Mbps cho chiều lên. Với tốc độ truy nhập như vậy thì quá thừa thãi cho các ứng dụng cao cấp như HDTV (khoảng 10 Mbps, chiều lên chiều xuống, chiều lên cho peer-to-peer HDTV). Active Ethernet thông thường cung cấp tốc độ chiều lên và chiều xuống 100 Mbps tới mỗi thuê bao. Active Ethernet cũng có thể cung cấp tốc độ lớn hơn vậy với thiết bị đầu cuối GbEthernet, tuy nhiên các thiết bị hỗ trợ Gb Ethernet Switch bị hạn chế về giá thiết bị (thường đắt hơn ít nhất gấp 6 lần so với active Ethernet thông thường). Trong một vài thử nghiệm gần đây đuợc tiến hành bộc lộ khả năng hạn chế của Active Ethernet đó là: khi download 1 bộ phim HDTV 5.8 GB, khoảng 47 gigabits thông tin cần truyển tải, GPON mất 2 phút còn Active Ethernet mất 8 phút tại tốc độ truyền 100 Mbps. Một trong những điều đáng thuyết phục các Operator để triển khai GPON đó chính là khả năng Broadcast TV, và IPTV nhờ Nhóm 1 - Lớp D06VT2
17
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx vào buớc sóng 1550 nm. (quảng bá tv số và analog), trong khi Active Ethernet chỉ hỗ trợ IPTV. Sự khác biệt lớn nhất của GPON và Active Ethernet nắm ở khía cạnh đầu tư và hiệu quả kinh tế: - Để cho cùng đạt đuợc khoảng cách tới thuê bao là 20Km, Inactive Ethernet cần thiết trên 4Watts/port; trong khi đó GPON cần không tới 1Watt. Nói một cách chân phuơng Inactive cần nguồn gấp 4 GPON và cần hệ thống điều hòa gấp 4 GPON. - Ngoài ra về diện tích và số luợng thiết bị GPON tỏ ra đỡ tốn kém hơn Active Ethernet nhiều. Bảng 2: So sánh một số tiêu chí cụ thể giữa GPON và Active Ethernet
Các nhược điểm của GPON:
Thiếu tính hội tụ IP (IP convergence)
Có một kết nối duy nhất giữa OLT và spitter, nếu kết nối này mất toàn bộ ONT không được cung cấp dịch vụ.
Active Ethernet có thể triển khai cấu hình mạng Ring sẽ tạo nên đường dự phòng. Trong khi đó GPON thì không.
III. CÁC DỊCH VỤ TRÊN MẠNG FTTx Các nhà cung cấp dịch vụ đang sử dụng mạng FTTx (Fiber-to-the-x) như một trong những công cụ hữu hiệu của chiến lược cạnh trạnh để cung cấp bộ 3 dịch vụ - Triple Play, bao gồm: thoại, dữ liệu và video trên nền IP. Các công nghệ thường được sử dụng để tạo dựng các mạng FTTx, bao gồm cả các mạng quang thụ động, các đường dây thuê bao số (DSL), và các công nghệ nén video đều tiếp cận đến mức giá cả cạnh tranh. Nhóm 1 - Lớp D06VT2
18
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx Do yêu cầu để triển khai mạng FTTx không quá khó khăn, các nhà cung cấp dịch vụ phải bảo đảm dịch vụ Triple Play mà họ cung cấp hoạt động hoàn hảo. Nếu mạng cơ sở hạ tầng FTTx đã được triển khai mà chất lượng lại không cao thì các nhà cung cấp dịch vụ sẽ phải đối mặt với nguy cơ vĩnh viễn mất đi các khách hàng trung thành vào tay các đối thủ cạnh tranh, những người cung cấp các gói dịch vụ tương tự nhưng với chất lượng cao hơn. 1. Xây dựng các khối bộ ba dịch vụ (Triple Play) Các dịch vụ Triple Play có thể được cung cấp nhờ nhiều công nghệ truy cập khác nhau trên cùng một mạng là FTTx. FTTx thực ra là một tập hợp các kiến trúc mạng mới được thiết kế để mang các dịch vụ băng rộng tới các khách hàng cuối cùng. Sợi quang có hoặc không được sử dụng trong tất cả các kết nối từ nhà cung cấp đến khách hàng cũng như trong kiến trúc FTTP. Công nghệ xDSL, ví dụ ADSL2+, có thể được sử dụng ở những kilomet cuối nhằm kết nối từ nút quang tới thiết bị cuối phía khách hàng (CPE). Thực tế, ở hầu hết các mạng FTTx, sợi quang, cáp đồng, cáp đồng trục, giao tiếp không dây hoặc một vài sự kết hợp của những phương tiện này sẽ mang các tín hiệu truyền tải các ứng dụng Triple Play tới các thiết bị mạng tích hợp, các máy thu hình, và các bộ chuyển đổi trong các ứng dụng VoIP và thoại thông thường. Khi triển khai các dịch vụ Triple Play theo kiến trúc FTTx thì việc kiểm tra tất cả các phương tiện truyền dẫn vật lý được sử dụng, đặc biệt là phần mạng truy cập bằng cáp đồng, trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Việc kiểm tra nhiều lớp của mạng cùng với các ứng dụng cung cấp phải được tiến hành trong toàn bộ vòng đời của mạng - từ giai đoạn lắp đặt, cung cấp dịch vụ, và bảo đảm dịch vụ. Để kiểm tra lớp vật lý cũng như các ứng dụng trong toàn bộ chu kỳ sống của mạng, rất nhiều phương pháp đo và loại thiết bị khác nhau cần được sử dụng ở rất nhiều điểm khác nhau trên mạng.
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
19
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx
Hình 12. Các kiến trúc dịch vụ mạng FTTx
Trong giai đoạn lắp đặt mạng, cần tiến hành xác định đặc tính sợi quang và các thông tin về suy hao chèn (insertion loss) và suy hao phản xạ ngược (optical return loss). Trong giai đoạn cung cấp dịch vụ, cần tiến hành đo công suất quang, hiệu suất truyền dữ liệu xDSL, đánh giá chất lượng thoại, video và dữ liệu. Khi mạng đã được triển khai và cung cấp các dịch vụ, việc kiểm tra đảm bảo dịch vụ trở thành một yêu cầu bắt buộc. Các kỹ thuật viên trên tuyến phải có khả năng cách ly các lỗi hiệu quả, thực hiện đánh giá dịch vụ đầu cuốiđầu cuối, và hỗ trợ quá trình phân tích sự cố một cách hiệu quả. 2. Kiểm tra các dịch vụ Triple Play Tương tự như việc triển khai lớp vật lý, việc triển khai các dịch vụ Triple Play được thực hiện theo ba giai đoạn khác nhau: lắp đặt các thành phần mạng và đánh giá sơ bộ chất lượng mạng, cung cấp dịch vụ tới khách hàng, và bảo trì, bảo đảm dịch vụ. Mỗi giai đoạn trong vòng đời của mạng lại mang đến những thách thức khác nhau cho mỗi dịch vụ Triple Play. 2.1. Dịch vụ IP Video Trước khi cung cấp dịch vụ IP video, nhà cung cấp dịch vụ phải xác định sự phù hợp của mạng truy cập của khách hàng với dịch vụ IP video. Các cơ chế quản lý Lớp dịch vụ Video (Video Class of Service), ví dụ như việc phân chia Nhóm 1 - Lớp D06VT2
20
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx nhãn VLAN (VLAN tag segregation), lập kế hoạch tải lưu lượng, và đảm bảo phải được xác định. Thiết bị DSLAM phải được nâng cấp để hỗ trợ chức năng thu phát gói (Internet Group Management Protocol-IGMP) và chức năng IP multicast. Cấu hình phía mạng truy cập cũng cần được thiết lập để có thể hỗ trợ các băng thông được yêu cầu đối với dịch vụ IP video. Đặc biệt, nó phải thoả mãn được yêu cầu truyền 3 kênh video đồng thời. Sau khi tất cả những vấn đề trên đã được giải quyết, tiến trình cung cấp các thành phần cần thiết của mạng và việc kết nối có thể bắt đầu. Các thành phần mạng cần lắp đặt và kiểm tra bao gồm các cổng DSLAM, Gateway phía khách hàng, các dây mạng đi trong nhà khách hàng và các bộ giải mã tín hiệu truyền hình số (STB -Set Top Box). Ngoài ra, việc đánh giá lại chất lượng của liên kết mạng truy cập cũng cần tiến hành. Khi tạo mới và cung cấp dịch vụ IP video, cần phải đánh giá và thu thập thông tin về chất lượng dịch vụ và các lỗi xảy ra. Việc khắc phục sự cố dựa trên những tình huống giả lập phải được thực hiện trước khi hoàn tất việc cài đặt dịch vụ. Trường hợp lý tưởng nhất là lưu lại được các bản báo cáo đo của khâu này trong quá trình triển khai dịch vụ và sau này dùng để tham chiếu cho các hoạt động bảo trì và bảo đảm dịch vụ. Sử dụng dữ liệu đã được lưu lại này sẽ được góp phần cải thiện đáng kể thời gian sửa chữa, khắc phục sự cố (Meantime-to-repair MTTR) mà nhờ đó, khách hàng được sử dụng dịch vụ chất lượng ổn định. Để cải thiện quá trình lắp đặt mạng và dịch vụ, các thiết bị đo kiểm có thể giúp kỹ thuật viên trên tuyến kiểm tra ba tham số trước khi cung cấp dịch vụ IP video, bao gồm: hiệu suất đường xDSL, cung cấp dịch vụ video, và chất lượng dịch vụ video (QoS) . Thiết bị phải có khả năng mô phỏng STB của khách hàng, lấy các luồng dữ liệu chương trình video, và xác định tính hợp chuẩn của các giá trị QoS được thiết lập bởi nhà cung cấp dịch vụ cho mỗi tham số. Các kết quả đo kiểm QoS Video hiển thị trên thiết bị đo kiểm của kỹ thuật viên sẽ cho biết tất cả các tham số quan trọng ảnh hưởng tới luồng video. Ví dụ, nếu jitter tham chiếu đồng hồ chương trình (Program Clock Reference PCR) cao, bộ giải mã không thể giải mã đúng tải video. Vấn đề trễ đối với IGMP ảnh hưởng tới thời gian cần để chuyển đổi giữa các kênh video quảng bá và do đó, là một yếu tố quan trọng liên quan đến cảm nhận của khách hàng về chất lượng dịch vụ mà họ nhận được (customer experience). Số gói tin bị mất trong luồng truyền dẫn video, được đo bằng bộ chỉ thị lỗi liên tiếp, là tham số quan trọng nhất trong số 3 tham số được nêu ra ở đây. Thiết bị cũng nên có khả Nhóm 1 - Lớp D06VT2
21
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx năng thiết lập các giới hạn Đạt/Không đạt (Pass/Fail) cho mỗi tham số này, làm tăng tính chắc chắn tổng các hoạt động vận hành thực tế và giúp cải thiện quá trình đảm bảo dịch vụ IP video. Để khắc phụ sự cố của IP video, các kỹ thuật viên trên tuyến có thể sử dụng thiết bị đo kiểm của họ để phát hiện trường hợp lỗi IP, ví dụ như lỗi điểm ảnh video hoặc lỗi đứng hình. Hai lỗi trên xảy ra là do mất gói dữ liệu, jitter gói quá lớn, hoặc cả hai. Nếu không phát hiện ra lỗi nào ở lớp vật lý của liên kết truy cập được kiểm tra thì có thể việc mất gói xảy ra ở đường lên (upstream) của DSLAM. Jitter PCR liên quan tới một kênh video, xác định vấn đề xảy ra ở headend, với việc chèn thêm các Local Ad, hoặc với các hoạt động chuyển đổi mã tín hiệu nguồn. Việc mất gói tin gây ra nhiều ảnh hưởng khác nhau. Ví dụ, nếu mất một gói mang khung B trong một tín hiệu video MPEG-2 sẽ chỉ ảnh hưởng tới một hoặc hai khung của luồng video; nếu mất một gói mang một khung I thì sẽ ảnh hưởng tới tất cả các khung cho tới tận khung I tiếp theo. Thường thì từ 14 đến 15 khung sẽ bị ảnh hưởng tùy thuộc vào thiết lập kích thước nhóm hình (Group of Picture – GOP). Việc giám sát liên tục luồng các gói tin là cần thiết để đảm bảo rằng các ứng dụng IP video đạt tới chất lượng mà các khách hàng trông đợi từ những nhà cung cấp dịch vụ video cạnh tranh. Yêu cầu về chất lượng mà họ mong muốn nhận được phải tốt hơn, hoặc ít nhất là bằng với chất lượng mà họ đã nhận được trước đó. 2.2. Dịch vụ thoại IP Muốn tạo và cung cấp một ứng dụng thoại IP cho doanh nghiệp thì phải xác định được tính phù hợp của mạng doanh nghiệp khi lưu lượng nhạy cảm với trễ của dịch vụ VoIP. Các tính năng lớp dịch vụ (Class-of-Service-CoS) phải tồn tại trong các bộ định tuyến (router), và mạng phải được sửa hoặc lắp đặt lại để phù hợp với lưu lượng thoại được thêm vào. Kế hoạch tải lưu lượng có thể ảnh hưởng tới thiết bị mạng, đặc biệt là với các yêu cầu về băng thông giao diện WAN. Các thỏa thuận về mức dịch vụ mới (Service Level Agreement - SLA) cần được thiết lập. Trong giai đoạn lắp đặt, cần lắp đặt và kiểm tra các thiết bị truy cập tích hợp (Integrated Access Device–IAD), gateway thoại, bộ định tuyến và điện thoại IP. Việc kiểm tra lớp vật lý của các liên kết WAN cũng phải được thực hiện. Theo đó, các thành phần mạng và các kết nối cần thiết có thể được cung cấp, và đường cáp mới được lắp đặt cho những điểm kết cuối mới (ví dụ các điện thoại IP hoặc các bộ chuyển đổi (adapter). Nhóm 1 - Lớp D06VT2
22
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx Khi dịch vụ được triển khai, kỹ thuật viên tập trung vào việc kiểm tra QoS VoIP và bố trí các điện thoại IP trong thực tế. Họ cũng cần xử lý lỗi và các vấn đề liên quan đến chất lượng dịch vụ trước khi hoàn tất việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Tương tự như với ứng dụng IP video, cần phải thu thập các báo cáo kết quả đo ở giai đoạn này và lưu lại để sử dụng trong tương lai. Khi xảy ra sự cố dịch vụ thì những bản báo cáo này sẽ giúp rút ngắn thời gian giải quyết sự cố. Khi triển khai dịch vụ thoại IP, các kỹ thuật viên cần xác định tính kết nối từ phía khách hàng tới các gateway báo hiệu, cung cấp dịch vụ và chất lượng cuộc gọi. Họ có thể đánh giá chất lượng cuộc gọi bằng cách thực hiện các cuộc gọi kiểm tra trong nội bộ mạng IP (on-network test call) và các cuộc gọi sang mạng PSTN (off-network test call). Các tham số cuộc gọi quan trọng cần kiểm tra bao gồm: trễ gói, mất gói và jitter. Tuy nhiên, MOS (Mean Opinion Score) sẽ là tham số SLA quan trong nhất được sử dụng để đo chất lượng VoIP một cách tổng thể.
Hình 13 – Cấu trúc một mạng IP Video
Ở giai đoạn đảm bảo dịch vụ, rất nhiều vấn đề có thể làm giảm chất lượng dịch vụ VoIP, bao gồm vấn đề liên quan tới khu vực mạng phía khách hàng gây ra bởi bộ đàm thoại, hiệu suất của bộ xử lý/DSP, thiết bị thu/phát âm thanh, và hiệu suất hoạt động của bộ loại bỏ tiếng vọng trong mạng. Các chuyển giao mạng giữa mạng gói và mạng TDM thường được quản lý bởi một chuyển mạch gateway thoại là những điểm kiểm tra quan trọng trong tất cả các mạng. 2.3.
Dịch vụ dữ liệu IP Internet
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
23
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx Để cung cấp dịch vụ dữ liệu IP Internet tới các thuê bao FTTx thì mỗi khách hàng cần được thiết lập một tài khoản ISP (Internet Service Provider account – ISP account). Bên cạnh đó, kế hoạch về lưu lượng tải cũng cần sửa đổi để phù hợp với luồng dữ liệu được thêm vào. Các máy chủ truy cập dịch vụ băng rộng ở xa (Broadband Remote Access Server – BRAS) sẽ bị ảnh hưởng, do đó việc hoạch định băng thông và định tuyến/điều khiển phải được hoàn thiện. Bên cạnh việc thiết lập kết nối tới các ISP và cung cấp các thành phần mạng cần thiết cho luồng dữ liệu tăng thêm và xử lý lớp dịch vụ (CoS), các cổng DSLAM có thể được cấu hình lại để hỗ trợ tuyến trễ kép (dual-latency path) trong môi trường ứng dụng hỗn hợp này. Để kết thúc quá trình cài đặt, các kỹ thuật viên phải đánh giá hiệu suất hoạt động lớp vật lý DSL, mức độ kết nối tới ISP, và thông lượng của dịch vụ dữ liệu. Việc này được tiến hành bằng cách sử dụng một công cụ kiểm tra với khả năng tích hợp trình duyệt Web (Web Browser) và thông lượng FTP. Sử dụng các tập tin (file) kiểm tra có dung lượng có thể lựa chọn được bởi người dùng và tiến hành kiểm tra cả đường lên và đường xuống, bài đo thông lượng FTP sẽ kiểm tra hiệu suất của liên kết sát với các mô hình triển khai trong thực tế hơn là chỉ kiểm tra đơn giản mỗi đường xuống của liên kết. Thực hiện bài kiểm tra HTTP sử dụng một trình duyệt Web cũng có lợi trong việc đảm bảo rằng kết nối/truy cập ISP của người dùng cuối vẫn chạy hoàn hảo. Một khi dịch vụ dữ liệu IP Internet được triển khai thì độ chính xác của dịch vụ cung cấp cũng cần phải được đánh giá xem có hợp chuẩn hay không. Và một lần nữa, các bản báo cáo về bất kỳ sự cố hay vấn đề gì đều nên được lưu lại để sử dụng làm tài liệu tham khảo trong tương lai. 2.4.
Gói ba dịch vụ (Triple Play) cần Bộ đo kiểm cả ba dịch vụ (Triple Testing)
Việc kiểm tra phải được thực hiện ở rất nhiều lớp, bao gồm: lớp vật lý, lớp liên kết dữ liệu, lớp mạng và lớp ứng dụng. Nếu chỉ đơn thuần kiểm tra lớp vật lý ở mạng truy cập thì không thể phát hiện ra các vấn đề QoS tiềm ẩn mà có thể ảnh hưởng tới các ứng dụng Triple Play dựa trên gói. Hiển nhiên là việc truyền gói tin chịu ảnh hưởng của luồng gói đầu cuối tới đầu cuối. Các nhà cung cấp dịch vụ triển khai các mạng FTTx cần có chiến lược hoàn chỉnh về dịch vụ và đo kiểm tin cậy dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về ứng dụng được cung cấp để theo đó sẽ lắp đặt, cung cấp và bảo dưỡng chất lượng của các dịch vụ.
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
24
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx IV. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN Dự kiến FTTH sẽ dần thay thế ADSL trong tương lai gần một khi băng thông ADSL không đủ sức cung cấp đồng thời các dịch vụ trực tuyến trong cùng một thời điểm. FTTH cung cấp 1 IP tĩnh thích hợp với các doanh nghiệp, tổ chức triển khai dễ dàng các dịch vụ trực tuyến như IP Camera, lưu trữ mail, truyền dữ liệu tốc độ cao...Theo một báo cáo mới nhất của Heavy Reading, số hộ gia đình sử dụng kết nối băng rộng FTTH trên toàn thế giới sẽ tăng trưởng hàng năm trên 30% cho đến năm 2012 và đạt 89 triệu hộ khi đó. Hiện Nhật Bản, Trung Quốc và Mỹ là các quốc gia đi đầu trong lĩnh vực băng thông rộng sử dụng công nghệ cáp quang này.
Hình 14: Tỉ lệ băng thông rộng trên thế giới theo thống kê quý 4 năm 2007
Công nghệ FTTH đã có khoảng 20 triệu kết nối toàn cầu, chỉ tính riêng ở 3 nước Nhật Bản, Trung Quốc và Mỹ đã có thêm khoảng 6 triệu thuê bao, trong đó châu Á được đánh giá là thị trường có tiềm năng phát triển lớn. Theo dự đoán, vào cuối năm 2012, riêng châu Á sẽ có 54 triệu kết nối FTTH, tiếp theo là châu Âu/ khu vực Trung Đông/ châu Phi với 16 triệu, rồi đến Bắc Mỹ và Nam Mỹ với 15 triệu. Hiện nay, quá trình chuyển đổi sang FTTH đang được thực hiện ở nhiều nước, gồm Đan Mạch, Pháp, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Điển, Đài Loan và Mỹ.
PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC Nhóm 1 - Lớp D06VT2
25
FTTx và một số dịch vụ trên FTTx STT
HỌ VÀ TÊN
NỘI DUNG THỰC HIỆN
1
Lê Xuân Long
Tổng quan về FTTx
2
Nguyễn Văn Minh
3
Nguyễn Văn Nam
4
Phạm Tuấn Việt
Các dịch vụ trên FTTx
5
Champi Namaxay
Xu hướng phát triển
Các kỹ thuật triển khai FTTx
TÀI LIỆU THAM KHẢO
http://en.wikipedia.org/wiki/Fiber_to_the_x
Thomas Martin, Fiber To The Home, Cisco Networkers, 2007
Paul E. Green JR, Fiber To The Home – The new empowerment, A John Wiley & Sons, Inc., Publication, 2006
G. Kramer, Ethernet Passive Optical Networks, McGraw-Hill Professional.
Nhóm 1 - Lớp D06VT2
26